NGƯU TẤT – 牛膝

Danh mục:

Tên khoa học

Achyranthes bidentata thuộc họ Dền.

Xuất xứ

Cây ngưu tất có nguồn gốc từ Trung Quốc được di thực vào nước ta từ lâu. Tại Việt Nam, người ta thường hay nhầm với cây cỏ xước mọc hoang. Nhưng ngưu tất có rễ to hơn rất nhiều so với cây cỏ xước

Đặc điểm nổi bật

Ngưu tất là loài thân thảo sống lâu năm, cao 70-120cm. Gốc hình trụ, đường kính 5 – 10mm, màu kaki. Thân có góc cạnh hoặc hình vuông, màu xanh lục hoặc màu tím, với các sợi hoa màu trắng hoặc có lông tơ phát triển. Lá đơn mọc đối; cuống lá dài 5-30mm; phiến lá có màng, hình bầu dục hoặc hình elip, dài 5-12cm, rộng 2-6cm, có lông ở cả hai mặt. Cụm hoa dạng cành ở ngọn và ở nách, dài 3-5cm, hình nón sau khi ra hoa; cuống chung dài 1-2cm, màu trắng muốt. Hạt hình thuôn, dài 1mm, màu vàng nâu. Thời kỳ ra hoa từ tháng 7-9, thời kỳ cho quả từ tháng 9-10. Rễ hình trụ thon, thẳng hoặc cong, dài 15 – 70cm, đường kính 0,4 – 1cm. Rễ ngưu tất có màu vàng xám hoặc nâu nhạt, có các nếp nhăn dọc theo rễ. Vị thuốc ngưu tất sử dụng trong đông y là rễ đã phơi khô của cây ngưu tất.

Tác dụng

Theo y học cổ truyền, ngưu tất vị đắng chua, tính bình, quy kinh can, thận. Vị thuốc này có tác dụng hoạt huyết điều kinh, chữa đau lưng, đau khớp.

Về y học hiện đại, tác dụng với sức khỏe của ngưu tất đã được nhiều nhà nghiên cứu chứng minh.

  • Chống viêm, giảm đau: Nghiên cứu trên chuột cho thấy ngưu tất có tác dụng ức chế đáng kể chứng sưng tai, tác dụng tỉ lệ thuận với liều dùng.Việc sử dụng nước sắc ngưu tất có tác dụng giảm đau rõ rêt.
  • Hạ huyết áp: Nước sắc ngưu tất có tác dụng hạ huyết áp trong thời gian ngắn. Cơ chế này được cho rằng có liên quan đến quá trình giải phóng Histamin, ức chế hoạt động tim và giãn mạch ngoại vi.
  • Kích thích cơ trơn tử cung: Saponin trong ngưu tất có tác dụng kích thích cơ trơn tử cung đã bị suy yếu. Sau khi sử dụng thuốc, biên độ cơn co tử cung và tần số cơn co tăng lên, các cơn co thường rất nhịp nhàng, không có các cơn co cứng.

Đối tượng sử dụng

  • Người bị bế kinh, đau bụng kinh.
  • Người bị đau khớp, viêm khớp.
  • Người mắc chứng lâm: Đái ra máu, đái ra sỏi, tiểu rắt, tiểu buốt.
  • Người bị phù nề.
  • Người mắc chứng thấp nhiệt, họng sưng đau, loét miệng, răng lợi đau.

Cách dùng – liều dùng

Dùng thuốc sắc lấy nước hoặc tán bột dùng.

Liều dùng:6 – 12g/ngày.

Lưu ý

  • Người rong kinh, phụ nữ có thai không dùng.
  • Người tỳ vị hư nhược không dùng.

Bảo quản

Bảo quản trong lọ, túi kín ở nơi khô ráo, thoáng mát.

Câu chuyện thú vị

Có một người đàn ông từ Hà Nam đến An Huy bán thuốc và hành nghề chữa bệnh, lâu ngày quen người và định cư ở đây. Người đại phu ấy sống không vợ không con, ở một mình, chỉ có vài người học việc. Ông biết một loại dược liệu mà sau khi dùng có thể làm chắc xương, bổ gan thận. Đại phu đã dựa vào đó để chữa khỏi cho rất nhiều bệnh nhân bị thiếu khí, thiếu máu. Đại phu nghĩ, ông nên truyền công thức bí mật này cho ai? Nhìn lớp học có vài người học nghề giỏi, nhưng biết người, biết mặt mà không có tâm, nếu thực sự muốn truyền công thức bí mật này cho người học nghề giỏi có tâm thì phải thử. Vì vậy, ông nói với những người học nghề của mình: “Ta đã già và bệnh tật, ta không thể buôn bán thuốc được nữa. Các con đã học hết các kỹ năng của ta, hãy tự đi kiếm sống”.

Đại đệ tử nghĩ thầm, sư phụ cả đời bán thuốc, hẳn là tiết kiệm được không ít tiền. Vì vậy, hắn nói với sư phụ: “Sư phụ, con sẽ không rời đi, sư phụ dạy con học, con nên nuôi người đến già.” Các môn đệ khác cũng nói như vậy. Sư phụ thấy vậy,  không còn cách nào khác, trước tiên phải đến ở trong nhà của đại đệ tử. Người đệ tử phục vụ đồ ăn và thức uống rất ngon khiến sư phụ rất hài lòng. Mấy ngày sau, đệ tử lén mở đồ đạc của sư phụ trong lúc sư phụ đi vắng, hóa ra sư phụ không có tiền, chỉ có những loại dược thảo đã nhiều năm không bán. Đệ tử tức giận đến nỗi không còn quan tâm đến sư phụ nữa. Sau đó, sư phụ mới nhìn thấu được tâm tư của hắn, nên đã rời bỏ hắn và dọn tới nhà của người đệ tử khác. Nhị đệ tử cũng giống như đại đệ tử, đầu tiên là tiếp đãi sư phụ rất nhiệt tình và sau đó trở nên lạnh lùng khi biết rằng ông không có tiền.

Sau một thời gian, sư phụ lại đi tìm tam đệ tử. Người này cũng không khác gì hai đệ tử trước . Cuối cùng, sư phụ không thiết sống nữa, đành phải vác hành lý lên lưng, ngồi khóc bên đường. Lúc này, người đệ tử nhỏ tuổi nhất đã biết chuyện. Anh chạy đến chỗ thầy và nói: “Hãy đến ở nhà con”. Sư phụ lắc đầu nói: “Ta không một xu dính túi, ta có thể ăn cơm của ngươi mà không có việc gì sao?”. Đồ đệ nói: “Sư phụ, người giống như cha con, con cái không nên báo hiếu cha mẹ sao?”. Thấy cậu thành khẩn, sư phụ dọn đến nhà đệ tử nhỏ tuổi nhất. Sau đó vài ngày, sư phụ đột ngột đổ bệnh. Cậu học trò bé bỏng đợi trên giường cả ngày, cũng hiếu thảo như hiếu thảo với cha mẹ đẻ của mình. Sư phụ nhìn vào trong mắt, bí mật gật đầu. Một ngày nọ, sư phụ gọi đồ đệ nhỏ của mình đến trước mặt và nói: “Đây là một loại dược liệu là quý giá, dùng nó làm thuốc thì có thể khỏe mạnh cơ xương, bồi bổ gan thận, giúp người bệnh nhanh khỏi. Ta sẽ cho con ngay bây giờ! “. Chẳng bao lâu sau sư phụ qua đời. Đồ đệ đã chôn cất thầy một cách đàng hoàng. Từ đó, cậu ta trở thành một thầy thuốc trẻ  được nhiều người biết đến nhờ dựa vào công thức bí mật mà sư phụ truyền lại. Hình dáng của những cây thuốc do thầy để lại rất đặc biệt, trên thân cây có những đường gờ, rất giống đầu gối của một con bò. Vì vậy, người đệ tử đã đặt tên cho nó là “Ngưu tất”.

0/5 (0 Reviews)

Đánh giá

Chưa có đánh giá nào.

Hãy là người đầu tiên nhận xét “NGƯU TẤT – 牛膝”