TRI MẪU – 知母

Danh mục:

Tên khoa học

Anemarrhena asphodeloides Bunge thuộc họ Hành tỏi.

Tên gọi khác: Chi Mâu

Xuất xứ

Tri mẫu là loại thảo dược có nguồn gốc từ Trung Quốc. Hiện nay, chưa thấy trồng tại nước ta.

Đặc điểm nổi bật

Tri mẫu là một loại cây cỏ sống lâu năm cao khoảng 60 – 130cm. Lá mọc thành chùm từ gốc, hình mác mảnh mai, dài 33 – 66 cm. Hoa nở vào tháng 8 – 9. Cành hoa mọc từ kẽ lá, mọc thẳng, hình trụ, hình chùy, hoa có màu giống hoa oải hương. Quả hình thuôn dài, chứa nhiều hạt màu đen. Thân rễ mọc ngang dưới đất, hơi thuôn, phủ nhiều lông màu vàng vàng. Bộ phận dùng làm thuốc là thân rễ thu hoạch vào mùa xuân và mùa thu rồi sấy hoặc phơi khô.

Tác dụng

Trong y học cổ truyền, tri mẫu có vị đắng tính hàn, quy kinh tỳ, vị, thận có tác dụng thanh nhiệt giáng hỏa, nhuận trường.

Các nghiên cứu khoa học cho thấy hoạt tính y học của tri mẫu chủ yếu liên quan đến mangiferin và saponin steroid. Các tác dụng của tri mẫu được y học hiện đại chứng minh gồm:

  • Tác dụng chống viêm: Anemasaponin B, một saponin steroid được phân lập từ tri mẫu, thể hiện hoạt tính chống viêm trong dòng tế bào đại thực bào được kích thích bởi LPS. Anemasaponin B cũng làm giảm sản xuất chất trung gian gây viêm và ức chế nitric oxide synthase cảm ứng. Một số bài thuốc chứa tri mẫu cũng thể hiện hoạt tính chống ung thư và chống viêm hiệu quả hơn so với hoạt tính của celecoxib trong các mô hình động vật bị thoái hóa khớp.
  • Tác dụng chống tập kết tiểu cầu: Sáu saponin steroid được phân lập từ thân rễ của A. asphodeloides ức chế sự kết tập tiểu cầu trong máu người và kích hoạt thời gian thromboplastin một phần.
  • Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Chiết xuất từ tri mẫu làm giảm lượng đường huyết ở chuột mắc bệnh tiểu đường do alloxan gây ra. Cơ chế hạ đường huyết có thể liên quan đến việc ức chế quá trình tạo glucagone ở gan hoặc quá trình phân giải glucose.
  • Điều hòa nội tiết tố nữ: Tri mẫu chứa etanol đã ghi nhận hoạt động điều hòa estrogen.
  • Hạn chế tình trạng loãng xương: Saponin kích thích sinh sản nguyên bào xương và hoạt động của men phosphatase kiềm. Mangiferin và neomangiferin ức chế men phosphatase acid kháng tartrate, một chất chỉ điểm sinh hóa của chức năng hủy cốt bào và quá trình tiêu xương.

Đối tượng sử dụng

  • Người bị sốt cao kéo dài, vật vã, đau nhức trong xương, ra mồ hôi trộm.
  • Người bị táo bón, bí tiểu do sốt cao, mất nước.
  • Người bị ho khan.
  • Người bị đái tháo đường.
  • Phụ nữ bị rối loạn nội tiết, tiền mãn kinh, âm hư.

Cách dùng – liều dùng

Dùng thuốc sắc lấy nước hoặc tán bột dùng.

Liều dùng: 4 – 6g/ngày.

Lưu ý

  • Người tỳ vị hư nhược, phân lỏng không nên dùng.

Bảo quản

Bảo quản trong lọ, túi kín ở nơi khô ráo, thoáng mát.

Câu chuyện thú vị

Ngày xửa ngày xưa, có một bà lão mồ côi không con cái, từ khi còn trẻ đã kiếm sống bằng nghề đào thuốc. Vì không ham tiền, bà đã đem hết số thuốc hái được cho những người bệnh tật, nghèo khó nên đã già mà không có tiền tiết kiệm. Khi về già yếu, không thể leo núi hái thuốc, bà phải đi xin ăn khắp làng. Bà cụ suốt ngày cau có, không phải vì cuộc sống vất vả, điều bà lo lắng là không có ai để bà truyền cho khả năng nhận biết thuốc chữa bệnh, một khi bà nhắm mắt thì lấy ai đào thuốc chữa bệnh cho dân làng. Sau khi suy nghĩ, bà lão quyết định tìm một người đáng tin cậy để truyền nghề. Vì vậy, bà nói với mọi người: “Ai nhận ta là mẹ, ta sẽ dạy người ấy nhận biết các loại thảo dược.’

Lát sau, có một người đàn ông quý tộc nghe thấy và thầm nghĩ: “Nếu mình học biết chữa bệnh thì chẳng phải có cách lấy lòng quan sao?”. Anh ta quyết định mời bà lão đến nhà và nói: “Thưa bà, tôi sẵn lòng làm con trai của bà, hãy nói cho tôi biết về các loại thảo dược để chữa bệnh”. Bà lão liếc mắt nhìn hắn và nói: “Không vội, để xem cậu coi tôi như người mẹ thế nào đã.” Người đàn ông liền ra lệnh dọn phòng chính, thay quần áo mới và mang đồ ăn ngon đến cho bà. Tuy nhiên, đã hơn mười ngày liền nhưng không hề thấy bà lão nhắc đến thuốc bắc. Người con trai không chịu nổi nữa bèn nói: “Mẹ ơi, đến lúc truyền dạy cho còn rồi.” Bà lão liền đáp: “Vẫn còn sớm.” “Vậy chúng ta còn phải chờ đợi bao nhiêu năm.” “Chờ mười tám năm.” “Cái gì”. Người đàn ông nhảy dựng lên: “Ta còn phải nuôi ngươi mười tám năm sao? Đừng hòng lừa ta, cút ra ngoài ngay.”

Sau đó, bà lão lại tiếp tục đi ăn xin trên đường. Không lâu sau, một người phú hộ khác tìm thấy bà và sẵn sàng nhận bà làm mẹ nuôi. Kế hoạch của hắn ta là bán thật nhiều dược liệu để thu lãi. Hắn đưa bà lão về nhà, lúc đầu còn chiêu đãi đồ ăn thức uống ngon lành. Nhưng mãi một tháng sau vẫn không thấy bà lão nói chuyện thuốc thang nên lại đuổi bà ra ngoài.

Hai năm sau, khi bà lão đang ăn xin ở ven đường và kể lể những tâm tư của mình thì bị mọi người coi là kẻ mất trí, nói dối. Mùa đông năm nay, bà loạng choạng đi đến một ngôi làng miền núi hẻo lánh và ngã xuống trước cửa một nhà. Âm thanh đã báo động cho chủ nhân ngôi nhà. Người chủ là một tiều phu trẻ tuổi liền đỡ bà vào trong nhà, biết bà bị đói liền vội vàng kêu vợ dọn cơm. Sau khi ăn xong, bà lão định đứng lên nhưng hai vợ chồng tiều phu đã ngăn lại: “Bà hãy ở lại đây đi, tuổi này ăn xin không phải là dễ dàng, nếu không chê nghèo thì hãy ở lại đây với tôi.” Bà lão ngập ngừng một lúc cuối cùng cũng gật đầu.

Ngày tháng trôi qua thật nhanh, trong nháy mắt hoa xuân đã nở rộ. Một hôm, bà lão ngập ngừng nói với người tiều phu: “Ta cảm thấy buồn khi thấy nhà con như thế này, hay là để ta đi”. Người tiêu phu lo lắng: “Người già rồi mà không có con, chúng tôi không có cha mẹ. Hãy sống ở đây như một gia đình đi, người làm mẹ của con đi”. Bà lão bật khóc, cuối cùng cũng tiết lộ bí mật nhưng hai vợ chồng tiều phu không quan tâm. Họ đều là những người cực khổ, không cần phải trả ơn, miễn là bà sống thoải mái là được. Thời gian trôi qua, bà lão nay đã 80 tuổi. Mùa hè năm nay, bà bỗng nói với người tiều phu rằng: “Con ơi, hãy đưa ta lên núi xem”. Người con cõng bà lên dốc rồi chạy xuống hết lần này đến lần khác để làm bà lão vui. Khi đến một sườn đồi cỏ dại mọc um tùm, bà lão đi xuống, ngồi trên phiến đá chỉ vào một đám cỏ dại lá thẳng, hoa sọc trắng màu tím và nói: “Con ơi hãy đào lấy rễ của nó.” Ông đào lên một gốc cỏ màu nâu vàng và hỏi: “ Mẹ ơi, đây là cây gì?” Bà lão nói: “Đây là một cây thuốc chữa bệnh như ho, nhiệt, cảm, sốt rất tốt. Con ơi, con có biết tại sao đến tận hôm nay mẹ mới dạy con cách nhận biết thuốc không?” Người tiêu phu suy nghĩ một lát rồi nói: “Mẹ muốn tìm một người lương thiện, thật thà để dạy nhận biết thuốc, còn sợ người có ý xấu sẽ dùng cách này để hại dân.” Bà lão gật đầu: “Con ơi, con thật hiểu ý mẹ. Thuốc này chưa có tên, vậy hãy gọi nó là “Tri Mẫu””.

Sau đó bà lão đã dạy cho người tiều phu rất nhiều loại dược liệu. Sau khi bà qua đời, người tiều phu chuyển sang nghề bốc thuốc nhưng ông luôn tâm niệm lời dặn của bà lão và tận tâm phát thuốc chữa bệnh cho người nghèo.

0/5 (0 Reviews)

Đánh giá

Chưa có đánh giá nào.

Hãy là người đầu tiên nhận xét “TRI MẪU – 知母”