Tên khoa học

Cornus officinalis Sieb. et Zucc họ Sơn thù du.

Tên khác: Sơn thù, giác mộc.

Xuất xứ

Sơn thù du có nguồn gốc tại Trung Quốc, hiện chưa di thực về Việt Nam. Cây mọc hoang và được trồng tại nhiều nơi như Thiểm Tây, Hà Nam, Tứ Xuyên, Triết Giang (Trung Quốc).

Đặc điểm nổi bật

Cây sơn thù du thường mọc ở những nơi ẩm ướt như khe suối, khe núi, sườn đồi. Cành già màu nâu sẫm, cành non màu xanh lục. Lá mọc đối xứng, dài 5-12 cm, rộng 7,5 cm, nhọn ở đỉnh, tròn ở gốc, mặt trên có lông tơ thưa, mặt dưới có nhiều lông, hai bên có 6-8 cặp. Nách lá có lông màu vàng nâu, cuống lá dài khoảng 1 cm, có lông dẹt. Hoa có bốn thùy, các thùy rộng hình tam giác; cánh hoa hình trứng. Quả hình bầu dục, khi chín có màu đỏ. Thời kỳ ra hoa tháng 5-6, thời kỳ đậu quả tháng 8-10. Trong đông y, sử dụng quả sơn thù du chín thu hoạch vào cuối thu hoặc đầu đông, phơi khô bỏ hạt..

Tác dụng

Theo y học cổ truyền, sơn thù du vị chua, sáp, ấm, quy kinh can, thận. Thuốc có tác dụng bổ can thận, cố tinh, sáp niệu được dùng:

  • Chữa di tinh, tiểu tiện nhiều lần, đau lưng, lạnh lưng, ù tai do thận hư.
  • Cầm mồ hôi.
  • Chữa hoa mắt, chóng mặt do can hư.
  • Chữa ngạt mũi.

Y học hiện đại cũng đã chứng minh nhiều lợi ích đối với sức khỏe của sơn thù du như:

  • Cải thiện chức năng tim: Sơn thù dù có khả năng cải thiện chức năng tim, tăng co bóp cơ tim, tăng cung lượng tim. Dùng sơn thù du còn làm tăng huyết áp, tăng lưu lượng tuần hoàn ở những trường hợp bị sốc, kéo dài thời gian sống.
  •  Cải thiện hệ miễn dịch: Nước sắc sơn thù du có tác dụng thúc đẩy miễn dịch dịch thể và đẩy nhanh quá trình hình thành các kháng thể IgG và IgM ở trong huyết thanh.
  • Chống viêm, kháng khuẩn: Nước sắc sơn thù du có tác dụng ức chế rõ rệt quá trình xuất tiết, viêm, phù nề và các chất viêm gây tổn thương thận. Sơn thù du có tác dụng ức chế mạnh với các vi khuẩn như Staphylococcus epidermidis, Enterococcus, Staphylococcus aureus, Shigella,…
  • Chống oxy hóa, giảm lipid máu, cải thiện trí nhớ: Sơn thù du có khả năng cải thiện khả năng chịu đựng của cơ thể trong môi trường thiếu oxy, giảm tình trạng mệt mỏi và cải thiện trí nhớ. Vị thuốc này cũng kích thích hoạt động của SOD trong hồng cầu và chống lại quá trình peroxy hóa lipid. Rượu sơn thù du có tác dụng trung hòa tryglicerid và cholesterol máu, đồng thời ngăn ngừa xơ cứng động mạch.

Đối tượng sử dụng

  • Người mắc chứng thận hư: di tinh, tiểu tiện nhiều lần, đái dầm, đau lưng gối mỏi, lạnh lưng, ù tai,…
  • Người bị ra mồ hôi không tự chủ.
  • Người bị hoa mắt, chóng mặt.
  • Người suy giảm chức năng tim.
  • Người có chỉ số mỡ máu cao, rối loạn chuyển hóa lipid.
  • Người bị rong kinh.
  • Người suy giảm hệ miễn dịch.
  • Người mới ốm dây, muốn bồi bổ cơ thể

Cách dùng – liều dùng

Dùng thuốc sắc lấy nước hoặc tán bột dùng.

Liều dùng:6 – 12g/ngày.

Lưu ý

Sơn thù du có thể tương tác với rifampicin, aspirin, indomethacin, aminophylline, nhôm hydroxit và natri bicarbonate. Vì vậy, nếu bạn đang dùng một trong những loại thuốc này cần tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng sơn thù du.

Bảo quản

Bảo quản trong lọ, túi kín ở nơi khô ráo, thoáng mát.

Câu chuyện thú vị

Vào thời Chiến Quốc, các lãnh chúa xung đột, chiến tranh thường xuyên xảy ra, khi đó khu vực xung quanh dãy núi Thái Xương thuộc về nước Triệu, hầu hết cư dân trên núi đều phụ thuộc vào việc lên núi hái thuốc để kiếm sống. Có lần, một người dân trong làng dâng lên vua Triệu một loại thuốc, vua Triệu hỏi: “Thuốc này tên gì, công năng ra sao?”. Dân trả lời đây là quả Sơn du, chuyên dùng làm thuốc trong dân. Vua bèn tỏ vẻ khinh thường: “Kẻ thấp hèn này dám dùng loại thảo dược tầm thường này làm cống phẩm, chẳng phải là xem thường vị vương này, ta cho rằng ngươi thiếu hiểu biết, không trừng phạt ngươi, mau đem loại thảo dược này về đi. ”

Lúc này, một vị thái y họ Chu nói với vua Triệu rằng: “Đây một vị thuốc tốt, người làng này nghe nói vua bị đau thắt lưng, bèn hái đem về đây”. Vua Triệu nói: ” “Ta không cần dùng đến thứ này.” Nghe xong, dân làng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rời khỏi cung điện và về nhà.

Nhìn thấy dân làng bỏ đi trong tuyệt vọng, Chu Vũ Nhất vội vàng nói với dân làng: “Hãy mua cho ta một ít loại cây này.” Nghe xong, dân làng đã mua tất cả số cây mà họ thu được cho Chu Vũ Nhất. Thái y trồng trong sân vườn, sau 2 năm cây phát triển rất tươi tốt, ông hái quả, rửa sạch, phơi khô và cất giữ để dùng sau.

Một ngày nọ, căn bệnh cũ của vua Triệu tái phát với chứng đau thắt lưng, cơn đau không thể chịu đựng được. Thấy vậy, Chu thái y vội vàng dùng loại quả rừng mà sắc cho vua Triệu, sau khi vua Triệu uống thì cơn đau thắt lưng dần dịu đi, uống được 3 ngày thì ông lại bình phục như trước. Vua Triệu hỏi Chu thái y: “Ngươi cho ta uống thuốc gì mà hiệu nghiệm vậy.” Chu Thái y đáp: “Vị thuốc này là loại quả mà trước đây dân núi Thái Xương đã cống nạp.” Vua Triệu vui mừng khôn xiết sai người trồng một vườn cây trong cung. Một vị phi tử của vua Triệu bị đau bụng kinh và chảy máu âm đạo liên tục, vua lại ban chiếu chỉ lệnh cho Chu Vũ Nhất sắc thuốc chữa bệnh. Chu thái y cũng vẫn dùng tới vị thuốc nọ để điều trị khỏi cho vợ Vua.

Để khen ngợi thành tích của Chu Thái y, vua Triệu đã đặt tên cây là “Sơn thù du”. (trong chữ hán chữ Chu  (朱), chữ Thù (茱) là chữ Chu (朱) thêm bộ thảo (艹))

0/5 (0 Reviews)

Đánh giá

Chưa có đánh giá nào.

Hãy là người đầu tiên nhận xét “SƠN THÙ DU – 山茱萸”