Vì sao cần tìm hiểu về Silicone và liệu pháp làm đẹp bằng Silicone
Trong quá khứ, ngày 3-3-2011, ở Lào Cai xảy ra một vụ việc đau lòng mà các phương tiện truyền thông gọi là “tử vong sau khi làm đẹp ngực” (Theo VnExpress). Các bản tin đó không hề nói rõ là những nạn nhân đó đi nâng ngực ở đâu? Nâng bằng cách gì? Bơm ngực hay là đặt túi nâng ngực? Nếu bơm thì là bơm chất gì? Cách thức bơm như thế nào? Đã xảy ra những chuyện gì cho nạn nhân? Và nguyên nhân tử vong thực chất là gì? Đến 14-3-2011, tại thành phố Hồ Chí Minh có một trường hợp tử vong do tai biến sau khi bơm silicone vào mông (Báo Dân Trí dẫn theo Báo Sài Gòn tiếp thị)… Cách đưa tin chung chung như vậy dễ gây ngộ nhận cho quần chúng, làm hoang mang dư luận. Trước dư luận như vậy, đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất là những người đang hành nghề thẩm mỹ chân chính cùng với hoạt động nghề nghiệp chính đáng của họ. Đọc những tin ấy, độc giả sẽ nhận thấy có vẻ như họ nói về chuyện bơm ngực; và có vẻ họ hướng du luận về nguyên nhân bơm ngực bằng silicone để làm đẹp. Vì vậy chúng tôi thấy cần phải giúp cho công đồng hiểu đúng về thẩm mỹ nâng ngực, về chất silicone và vấn đề bơm silicone làm đẹp, là việc làm hết sức cần thiết và có nhiều ý nghĩa tốt đẹp.
Quá trình tìm kiếm và phát hiện silicone ứng dụng trong làm đẹp
Bơm hoặc tiêm chích các chất làm đầy (filler) vào cơ thể để nhằm bù đắp sự thiếu hụt của tổ chức mô hoặc để làm tăng thêm khối lượng mô của một bộ phận cơ thể với mục đích làm đẹp là liệu pháp đã được sử dụng từ xa xưa trên thế giới. Trong suốt hàng trăm năm lịch sử, các nhà phẫu thuật thẩm mỹ đã bỏ nhiều công sức và trí tuệ đi tìm một chất liệu nhân tạo lý tưởng để bơm vào, cấy ghép vào cơ thể nhằm bù đắp các tổn khuyết tổ chức và cải tạo ngoại hình, đáp ứng nhu cầu của con người về mặt thẩm mỹ.
Một chất liệu được coi là “lý tưởng” phải có được các đặc tính:
– Trơ về hóa-lý (Chemically and physically inert)
– Không gây phản ứng mô tại chỗ (locally nonreactive)
– Không ảnh hưởng tới đặc tính di truyền của cơ thể ( nonantigenetic)
– Không gây ung thư (noncarcinogenic)
– Không độc và không gây phản ứng toàn thân (nontoxic and systemically nonreactive)
– Không biến đổi bởi thời gian, lực nén và nhiệt (Unchangeable with time, heat or pressure)
– Không tạo thuật lợi cho sự phát triển của vi khuẩn (nonsupportive of bacterial growth)
– Dễ tiệt trùng và dễ chỉnh sửa (Easy to sterilize and prepare)
– Không đắt tiền (inexpensive)
Trong quá trình tìm tòi một chất như vậy, người ta đã thử nghiệm và sử dụng nhiều loại chất liệu để bơm cấy, độn ghép vào cơ thể như xương sụn, ngà voi, một số kim loại, chất dẻo, một số hợp chất tổng hợp (Arcylics, Teflon, Mersilene, thép không rỉ…) và hợp chất polymer như silicone. Người ta cũng sử dụng cả những chất có nguồn gốc động vật và thực vật nhưng những biến chứng mà nó gây ra khiến người ta phải loại bỏ chỉ sau một thời gian ngắn sử dụng. Trong đó paraffin là một chất được sử dụng rất sớm và rất rộng rãi. Nhưng từ năm 1900, Gersuny đã báo cáo về những u hạt do paraffin gây ra. Thế mà đến năm 1965, ở phương Đông, tác giả Bochai vẫn tiếp tuc sử dụng liệu pháp paraffin. Tiếp theo đó có những báo cáo nghi ngờ khả năng gây viêm nhiễm và ung thư từ những sảm phẩm có nguồn gốc động thực vật như lanolin lỏng và paraffin. Trong tình hình khó khăn đó, việc chế tạo thành công silicone được coi như là một cú đột phá, đưa đến nhiều nghiên cứu thử nghiệm và áp dụng rộng rãi như một liệu pháp bơm làm đầy hiệu quả. Qua nghiên cứu và thử nghiệm, silicone đã chứng tỏ là một chất liệu đáp ứng được nhiều nhất những yêu cầu của một chất liệu lý tưởng tro ng y học. Từ những năm 1950, Silicone lỏng đã được sử dụng phổ biến ở châu Âu và Châu Á để bơm làm đầy các khuyết lõm phần mềm và làm tăng khối lượng của bộ phận cơ thể theo ý muốn như làm lớn ngực. Ta hãy tìm hiểu về silicone.
Silicone là gì ?
Silicone là một hợp chất cao phân tử (polymers) có tên hóa học là dimethylpolysiloxane, với thành phần chủ yếu là silicon kết hợp với oxygen, carbon và các gốc hữu cơ như ethyl, methyl, phenyl. Cấu trúc hóa học của nó gồm những chuỗi liên kết silicon –oxygen (-Si-O-Si-O-) và các liên kết ngang với các nguyên tử carbon. Bằng cách biến đổi các kiểu liên kết cấu trúc phân tử người ta tạo được các dạng tồn tại khác nhau của silicon như dạng lỏng (fluid), dạng gel, dạng dẻo, dạng rắn. Silicone dạng dẻo kiểu cao-su (Silastic) được sáng chế năm 1945.
Silicone được Hãng Dow Corning (Mỹ) chế tạo từ năm 1930. Đến năm 1943, Dow Corning tập trung chuyên về silicone và trở thành nhà sản xuất silicone lớn nhất thế giới với 7000 chủng loai sản phẩm.
Hợp chất silicone có thành phần chủ yếu là silicon nhưng hoàn toàn khác về đặc tính lý hóa. Silicon (Si) là một nguyên tố hóa học phổ biến trong tự nhiên, đứng hàng thứ hai sau Oxygen, chiếm 27,5 % tỉ trọng vỏ trái đất. Silicon không tồn tại độc lập mà thường tồn tại trong tự nhiên dưới dạng hợp chất như silic-dioxide (SiO2)hoặc silicate. Người ta sử dụng các kỹ thuật tách Oxygen ra khỏi hợp chất SiO2 để thu lấy silicon. Từ silicon này mới chế tạo ra hợp chất silicone polymer, mà một số trong những sản phẩm silicone polymers này được sử dụng trong y học. Silicon có vai trò rất quan trong và rất phổ biến trong tự nhiên cũng như trong đời sống. Nó có mặt trong tất cả các loại đá quý tự nhiên. Nó là thành phần cơ bản trong nguyên liệu của các ngành công nghiệp như thủy tinh, thép, vật liệu chất dẻo, điện và điện tử v.v.. Đặc biệt trong các ngành công nghệ kỹ thuật cao vai trò của silicon là vô cùng quan trọng. Silicon chip là bộ phận linh kiện cơ bản của công nghệ bán dẫn và công nghệ chế tạo máy tính điện tử. Silicon quan trọng đến mức mà tên của nó được đặt cho một trung tâm lớn nhất về công nghệ hi-tech của thế giới ở San Jose (Mỹ). Đó chính là “Thung lũng Silicon” (Silicon Valley).
Silicone trong thẩm mỹ
Silicone lỏng (silicone fluid) và Silicone dẻo (Silastic) là 2 dạng silicone chủ yếu được sử dụng trong thẩm mỹ như là những chất liệu cấy độn vào cơ thể.
Silicone dẻo (silastic);
Silicone dạng này rất quen thuộc với giới làm đẹp vì nó chính là các loại miếng ghép cấy độn cho nhiều vùng cơ thể: sống mũi, cằm, má, bắp chân, cơ ngực, mông v.v… gọi tiếng anh rất thông dụng là implant. Dạng silicone này đã được sử dụng từ lâu và hiện vẫn đang được sử dụng phổ biến trên thế giới. Ngoài những đặc tính chung của silicone, các loại implant này còn có nhiều ưu điểm thuận lợi cho sử dụng như mềm mại, dai, chắc, dễ thao tác khi phẫu thuật, dễ đẽo gọt chỉnh sửa theo yêu cầu, dễ tạo hình theo hình dạng của cơ quan cần cấy ghép. Nếu kết quả thẩm mỹ chưa hài lòng có thể lấy ra để thay đổi chỉnh sửa rất dễ dàng. Chưa có báo cáo nào trên thế giới đề cập đến những nguy hiểm biến chứng do các loại implant này gây ra. Qua kinh nghiệm lâm sàng, chúng tôi thấy sử dụng các implant này rất thuận tiện và an toàn. Những biến chứng nếu có thường chỉ do kỹ thuật mà thôi.
Túi nâng ngực silicone ( breast implant ):
Từ những năm 1950, túi nâng ngực huyết thanh đã được sử dụng.
Túi nâng ngực silsicone được sử dụng đầu tiên ở Mỹ năm 1962.
Từ năm1976, túi nâng ngực huyết thanh (còn có tên gọi dân gian là túi nước biển, nước muối) và túi chứa silicone-gel đã được sử dụng phổ biến để nâng ngực. Đến năm 1992, gần 2 triệu người Mỹ đã nâng ngực bằng túi silicone đã đồng loạt kiện các nhà sản xuât túi ngực silicone, nhưng rồi qua thực tế sử dụng và qua các công trình nghiên cứu người ta cũng không tìm thấy căn cứ nào để buộc tội túi ngực gây ung thư. Tuy vậy năm 1991, Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cấm sử dụng túi ngực chứa silicone-gel với lý do tuy chưa có đủ căn cứ để kết luận túi nâng ngực silicone không an toàn, nhưng cũng chưa có đủ căn cứ để kết luận là nó an toàn. Ở châu Âu, hàng năm có tới 100.000 phụ nữ đặt túi ngực, nhiều gấp đôi ở Hoa Kỳ. Nhưng rồi tiếp sau nước Mỹ, năm 1995 túi nâng ngực silicone cũng bị cấm dùng ở Pháp và Châu Âu, chỉ còn túi ngực huyết thanh được sử dụng. Hai hãng chế tạo túi ngực của Mỹ là Mentor và Mc Ghan (Innomed) tiếp tục được nghiên cứu thử nghiệm. Kết quả là năm 2005, thế hệ túi ngực slilicone-gel thứ 3 ra đời với nhiều đặc tính mới, an toàn hơn cho sử dụng. Đó là loại túi chứa loại silicone-gel có độ kết dính rất cao ( cohesive gel) và có khả năng tự định hình cấu trúc (memory structure). Nhờ vậy mà loại túi này an toàn hơn, nếu có bị thủng vỡ túi thì chất gel –silicone bên trong vẫn giữ nguyên hình khối, không thâm nhập vào mô chung quanh. Và cũng nhờ vậy mà túi ngực mới mang lại cảm giác sờ nắn tự nhiên hơn, ít bị co kéo biến dạng.
Silicone lỏng :
Silicone lỏng được thiết kế để sử dụng cho y học là siliconeMDX 44011, có độ nhớt cao gấp 350 lần độ nhớt của nước (350 centistokes so với của độ nhớt của nước là 1 centistoke). Silicone có độ nhớt càng cao thì càng ít bị hấp thu, càng giữ được hình khối, ít bị biến dạng. Trong những năm 1960, hãng Dow Corning đã kết hợp với các trường Đại học Mỹ như Đại học New York, tiến hành nhiều nghiên cứu thử nghiệm trên hơn 1.000 con vật các loài (chó, heo, chuột, khỉ…). Kết quả, người ta thấy có những nguy cơ về khả năng gây viêm, gây rối loạn phát triển mô và gây những bất thường cho hệ miễn dịch tại chỗ và toàn thân, mặc dù không tìm thấy bằng chứng về sự liên quan của silicone với khả năng gây ung thư.
Silicone lỏng có những đặc tính lý hóa của silicone nói chung nhưng có ưu điểm hơn và nhất là dễ sử dụng. Silicon lỏng và các hỗn hợp của nó pha với một số chất khác như dầu thực vật, acid béo…được sử dụng để bơm vào làm đầy các khuyết lõm dưới da, làm tăng khối lượng tổ chức theo ý muốn. Liệu pháp này được áp dụng phổ biến ở Châu Âu và Châu Á. Ở Mỹ được sử dụng ít hơn. Do tính chất trơ của nó, sau khi bơm vào mô dưới da, silicon không bị biến đổi, hình thành những túi, những nang trong mô làm căng đầy vĩnh viễn, tạo hình thể theo ý muốn. Chính vì thế mà nó còn được gọi là “mỡ nhân tạo” (artificial fat). Tuy nhiên sau vài thập kỷ hào hứng sử dụng người ta đã có thời gian theo dõi và ghi nhận những bất lợi của nó, Tuy không có báo cáo nào liên quan đến khả năng gây ung thư nhưng đã xảy ra những biến đổi về hình khối làm biến dạng xấu xí vùng cơ thể bơm silicone. Tuy nhiên người ta còn chưa thống nhất về nguyên nhân thực sự của các tác dụng xấu này. Nhiều tác giả cho rằng nhuyên nhân của vấn đề này là do những người thực hiện không được đào tạo huấn luyện đầy đủ nên đã sử dụng không đúng qui cách, không tuân thủ các hướng dẫn chuyên môn. Mặc dù vậy phong trào bơm silicon làm đẹp đã bị xẹp đi như bong bóng xì hơi. Vì sự an toàn cho con người, với phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, từ những năm cuối thập kỹ 60, đầu thập kỷ 70 người ta không còn khuyến khích sử dụng liệu pháp bơm silicone để làm đẹp. Nhất là việc bơm silicone để nâng ngực đã bị loại bỏ hoàn toàn. Ở Mỹ, liệu pháp bơm silicone bị coi như là thử nghiệm thuốc mới, chỉ được tiến hành ở một số cơ sở y tế theo những qui định chặt chẽ, mamg tính nghiên cứu.
Vấn đề bơm silicone lỏng ở Việt Nam
Liệu pháp bơm silicone làm đẹp đã được áp dụng ở Việt Nam từ rất lâu. Chưa có căn cứ để nói chính xác về thời gian, nhưng có lẽ đã có mặt ở Việt nam từ trước thập niên 60. Và có lẽ những người đi tiên phong sử dụng là giới nghệ sĩ cả nam và nữ, những người luôn canh cánh nỗi lo toan về nhan sắc của mình. Tiếp theo đó là chị em phụ nữ thuộc đủ các thành phần trong xã hội đua nhau đón nhận trào lưu này. Khả năng làm đẹp cuỉa silicone là có thực. Nó được tiếp nhận dễ dàng và phổ biến nhanh chóng nhờ vào các khả năng: dễ sử dụng, hiệu quả nhanh và chi phí thấp so với các phương pháp làm đẹp khác.
Tuy nhiên, cũng như mọi sự can thiệp khác vào cơ thể, liệu pháp bơm silicone làm đẹp có thể gây ra một số tai biến và biến chứng cho cơ thể.
Xin xem bảng sau :
Nguyên nhân | Tai biến cấp tính | Biến chứng gần | Biến chứng xa |
Do bản thân Silicone | -Viêm đỏ tại chỗ – Đau | – Xâm lấn mô – Viêm loét, hoại tử – Biến dạng vùng bơm | |
Do kỹ thuật sai: bơm quá nhiều 1 lần, bơm không đúng vị trí giải phẫu, bơm trong da, bơm vào mạch máu. | – Bơm khối lượng lớn 1 lần vào 1 chỗ. – Bơm vào mạch máu gây thuyên tắc mạch có thể gây tử vong. | – Gây viêm khối mô đau nhức – silicone nằm lạc chỗ hoặc vùng tiêm bị biến dạng xấu xí. | Nếu bơm nhiều: – Xâm lấn mô nặng nề – Viêm loét hoại tử – Biến dạng, chảy xệ vùng bơm. |
Nếu chất bơm là silicone thì nếu có xảy ra phản ứng thì chỉ là phản ứng tại chỗ, và nếu có biến chứng thường xảy ra chậm, mà chủ yếu là biến chứng xa, thậm chí hàng chục năm sau. Những tai biến tại tức thời có thể gây chết người thường là do shock phản vệ khi tiêm chích những chất có nguy cơ phản ứng cao hoặc những chất không phải để bơm chích vào cơ thể. Hoặc là bản thân các chất không gây nguy hiểm nhưng cách thực hiện không đúng, có sai sót về kỹ thuật chuyên môn. (Ví dụ để các chất đó hoặc bọt khí lọt vào mạch máu gây thuyên tắc chết người).
Vì vậy đối với mỗi trường hợp xảy ra tai biến do bơm silicone làm đẹp, đặc biệt là tai biến gây tử vong, các cơ quan chức năng sẽ phải tiến hành điều tra khám nghiệm để xác định nguyên nhân và đồng thời để xác định trách nhiêm. Trong mỗi trường hợp cần xác định rõ các vấn đề:
– Chất đã bơm (tiêm chích) vào cơ thể là chất gì?
– Chất đó có phải là silicone không?
– Cách thức bơm chích đã thực hiện như thế nào?
– Nguyên nhân gây tử vong (shock phản vệ hay thuyên tắc mạch)?
Có như vậy mới có thể rút ra kết luận chính xác và cần thiết về nguyên nhân, bản chất của sự việc để xác định đúng vai trò trách nhiệm của từng người, từng khâu trong quá trình diễn tiến của sự việc.
Và quan trọng là, các kết luận chính xác khoa học sẽ là sự cảnh báo, giúp tránh những rủi ro đó trong tương lai.
Càng quan trọng hơn nữa là, phải kịp thời công khai những kết luận đó ra công luận để đông đảo công chúng biết rõ, hiểu đúng sự việc. Để nhũng người có nguyện vọng làm đẹp có thể tự mình có những quyết đinh chính xác về mục tiêu làm đẹp và có sự lựa chọn đúng đắn những cơ sở y tế, những người hành nghề thẩm mỹ đáng tin cậy nhất có thể giúp một cách tốt nhất cho giấc mơ làm đẹp chính đáng của mình.
Bác sĩ Cao Ngọc Bích
Phó Chủ tich Hội Phẫu thuật thẩm mỹ TP Hồ Chí Minh
Nguồn:Hội Phẫu thuật thẩm mỹ TP Hồ Chí Minh