Bát cương biện chứng – Biểu lý biện chứng

Biểu lý là một phần quan trọng trong chẩn đoán bát cương để xác định vị trí và mức độ bệnh tật. Bên cạnh đó việc xác định biểu lý còn giúp theo dõi xu hướng thay đổi bệnh lý. Bệnh ở biểu thì nông và nhẹ, còn bệnh ở lý thì sâu và nặng. Khi tà khí bên ngoài xâm nhập vào bên trong thì bệnh tiến triển, khi tà khí bên trong lộ ra thì bệnh rút lui. Hiểu được mức độ nghiêm trọng của bệnh, chúng ta có thể nắm bắt được diễn biến của bệnh và chủ động điều trị. Đây là cơ sở để áp dụng các phương pháp điều trị như giải biểu hay công lý.

1. Biểu chứng

Biểu chứng là một loại bệnh chứng có vị trí bệnh biến ở lớp ngoài của cơ thể. Thường xuất hiện khi cơ thể bị các tác nhân như lục tà – lục dâm (các yếu tố khí hậu bất thường) xâm nhập vào da, cơ bắp và các vùng nông khác. Biểu chứng thường có các triệu chứng chính như sốt nhẹ, sợ lạnh (hoặc sợ gió), rêu lưỡi mỏng và trắng, mạch phù. Ngoài ra còn có thể kèm theo đau đầu, đau mỏi khớp tay chân, nghẹt mũi, chảy nước mũi, ho…. Đặc điểm của biểu chứng là phát bệnh nhanh, thời gian bệnh ngắn, và vị trí bệnh nông, chủ yếu gặp trong giai đoạn đầu của bệnh ngoại cảm. Tùy vào loại tà khí và tình trạng cơ thể mà biểu chứng được chia thành biểu hàn chứng, biểu nhiệt chứng, biểu hư chứng và biểu thực chứng.

  • Biểu Hàn chứng
    • Nguyên nhân: Do ngoại cảm phong hàn, tà khí xâm nhập lớp cơ biểu.
    • Triệu chứng: Sợ lạnh nhiều, sốt nhẹ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn.
    • Điều trị: Tân ôn giải biểu.
  • Biểu Nhiệt chứng
    • Nguyên nhân: Do ngoại cảm phong nhiệt, tà khí xâm nhập lớp cơ biểu.
    • Triệu chứng: Sốt cao, sợ lạnh ít, đầu lưỡi và viền lưỡi đỏ, mạch phù sác.
    • Điều trị: Tân lương giải biểu.
  • Biểu Hư chứng
    • Nguyên nhân: Do vệ ngoại dương khí bất cố, tấu lý bất mật, cơ thể dễ bị ngoại tà xâm nhập.
    • Triệu chứng: Ngoài các triệu chứng của biểu chứng, còn có tự hãn hoặc ra mồ hôi, sợ gió, mạch phù hoãn.
    • Điều trị: Điều hòa dinh vệ.
  • Biểu Thực chứng
    • Nguyên nhân: Do ngoại tà xâm nhập cơ thể, dương khí tập trung ở cơ biểu, tà khí và chính khí đối kháng, tấu lý mật bế (lỗ chân lông đóng kín).
    • Triệu chứng: Ngoài các triệu chứng của biểu chứng, còn có sợ lạnh, không có mồ hôi, mạch phù khẩn.
    • Điều trị: Phát hãn giải biểu (làm ra mồ hôi và giải tà khí).

2. Lý chứng

Lý chứng, trái ngược với biểu chứng, là loại bệnh chứng có vị trí bệnh biến sâu và ảnh hưởng đến tạng phủ, khí huyết. Phạm vi của lý chứng khá rộng. Nhìn chung, lý chứng được hình thành qua ba loại:

  • Biểu chứng không giải, tà khí truyền vào lý: Khi bệnh tà từ bên ngoài xâm nhập sâu vào bên trong cơ thể.
  • Ngoại tà trực trúng tạng phủ: Khi các yếu tố gây bệnh từ bên ngoài tác động trực tiếp vào các cơ quan nội tạng.
  • Do tình chí nội thương, lao lực quá độ, ăn uống không điều độ gây rối loạn chức năng khí huyết của tạng phủ.

Triệu chứng lâm sàng của lý chứng khác nhau tùy theo nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh. Cũng giống như biểu chứng, lý chứng cũng phân chia theo hàn, nhiệt, hư, thực.

  • Lý Hàn chứng:
    • Nguyên nhân: Thường do dương khí bất túc hoặc hàn khí xâm nhập vào lý.
    • Triệu chứng: Mặt tái nhợt, người lạnh, tay chân lạnh, không khát hoặc khát nhưng thích uống nước ấm, đau bụng thích chườm ấm, tiểu trong và dài, đại tiện lỏng hoặc loãng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trì.
    • Điều trị: pháp Ôn hóa.
  • Lý Nhiệt chứng
    • Nguyên nhân: Thường do ngoại tà xâm nhập vào lý hóa nhiệt hoặc nhiệt tà trực tiếp xâm nhập vào tạng phủ gây lý nhiệt bốc mạnh.
    • Triệu chứng: Mặt đỏ, người nóng, bồn chồn, khô miệng họng, khát nước thích uống lạnh, tiểu ngắn và đỏ, đại tiện táo bón hoặc tiêu chảy hôi thối, đại tiện có mủ và máu, lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng, mạch sác.
    • Điều trị: pháp Thanh tả lý nhiệt.
  • Lý Hư chứng:
    • Nguyên nhân: Do khí huyết tạng phủ suy yếu.
    • Triệu chứng: Mệt mỏi, thiếu sức, hơi thở ngắn và lười nói, chóng mặt, hoa mắt, hồi hộp, lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế nhược vô lực.
    • Điều trị: Bổ ích
  • Lý Thực chứng
    • Nguyên nhân: Do ngoại tà xâm nhập vào lý, kết ở dạ dày và ruột, hoặc do khí huyết uất kết, đàm ẩm nội trở, thực trệ, trùng tích…
    • Triệu chứng: Bụng trướng đau, cự án (ấn vào thấy đau), táo bón, bụng đầy, nóng sốt, mê sảng, giọng nói to và hơi thở mạnh, rêu lưỡi vàng dày, mạch trầm và thực.
    • Điều trị: Pháp chính “thông lý công hạ”. Đối với chứng khí huyết ứ trệ, đàm ẩm trùng tích khác nhau, pháp điều trị tùy theo bệnh tà, nhưng phương pháp điều trị chung là trục tà.
Tiêu chuẩn phân biệtBiểu chứngLý chứng
Quá trình phát bệnhBệnh mới mắc, diễn biến nhanh, thời gian bị bệnh ngắnBệnh kéo dài, diễn biến bệnh kéo dài
Triệu chứngSốt kèm theo sợ lạnhSốt không kèm sợ lạnh hoặc sợ lạnh nhưng không sốt
Thiệt chẩnBiến đổi không nhiềuChất lưỡi và rêu lưỡi đều thay đổi rõ rệt.
Mạch chẩnMạch phùMạch trầm

3. Biểu lý đồng bệnh

Trong lâm sàng, ngoài các trường hợp biểu chứng và lý chứng đơn thuần, ở cùng một bệnh nhân có thể đồng thời xuất hiện cả biểu chứng và lý chứng. Tình trạng này gọi là biểu lý tương kiêm. Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến bệnh cảnh này gồm:

  • Bệnh tà đồng thời xâm nhập cả biểu và lý.
  • Biểu chứng chưa giải, bệnh tà đã truyền vào lý.
  • Bệnh nhân vốn đã có lý chứng, lại cảm nhiễm thêm tà khí bên ngoài.

Biểu lý tương kiêm thường kết hợp với các yếu tố hàn nhiệt, hư thực khác nhau, xuất hiện các chứng như biểu lý đều nhiệt, đều hàn, đều hư, đều thực, hoặc biểu nhiệt lý hàn, biểu hàn lý nhiệt, biểu hư lý thực, biểu thực lý hư. Khi điều trị có thể cùng lúc điều trị cả biểu và lý, hoặc trước tiên điều trị biểu rồi đến lý, hoặc ngược lại, trước tiên điều trị lý rồi đến biểu.

Trong trường hợp bệnh ngoại cảm chưa được điều trị kịp thời ở biểu, sau đó xâm nhập vào lý, trong quá trình truyền biến có thể xuất hiện chứng bán biểu bán lý, tức là tà khí không ở biểu mà cũng chưa vào lý. Biểu hiện lâm sàng của chứng này bao gồm hàn nhiệt vãng lai, ngực sườn đau tức, chán ăn, tâm phiền và buồn nôn. Phương pháp điều trị nên dùng là hòa giải biểu lý.

Biểu chứng và lý chứng trong một số điều kiện nhất định có thể chuyển hóa lẫn nhau, gọi là biểu lý xuất nhập. Nếu tà khí quá mạnh, chính khí hư suy, hoặc do điều trị sai lầm, không đúng, khiến biểu chứng không giải được, tà khí từ biểu truyền vào lý, xuất hiện lý chứng, tức là biểu chứng chuyển hóa thành lý chứng, biểu hiện bệnh tình nặng hơn. Ngược lại, nếu điều trị và chăm sóc đúng cách, khả năng chống tà khí của cơ thể tăng lên, bệnh tà từ lý truyền ra ngoài, tức là lý tà xuất biểu, phản ánh bệnh tình giảm nhẹ.

Việc nắm vững Biểu chứng, Lý chứng trong Bát cương đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị bằng y học cổ truyền.

BS Uông Mai

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *