Bài thuốc - Vạn Quốc Dược Vương https://vanquocduocvuong.vn/category/dong-y/bai-thuoc/ Fri, 18 Oct 2024 15:45:53 +0000 vi hourly 1 https://vanquocduocvuong.vn/wp-content/uploads/2022/07/cropped-logo-vanquocduocvuong.png Bài thuốc - Vạn Quốc Dược Vương https://vanquocduocvuong.vn/category/dong-y/bai-thuoc/ 32 32 Những nghiên cứu mới về bài thuốc Quy tỳ thang https://vanquocduocvuong.vn/nhung-nghien-cuu-moi-ve-bai-thuoc-quy-ty-thang/ https://vanquocduocvuong.vn/nhung-nghien-cuu-moi-ve-bai-thuoc-quy-ty-thang/#respond Fri, 18 Oct 2024 15:45:53 +0000 https://vanquocduocvuong.vn/?p=3184 Đôi nét về lịch sử Quy tỳ thang và phụ phương Lịch sử bài thuốc Quy tỳ thang Quy tỳ thang lần đầu tiên được ghi chép trong “Tế sinh phương” của Nghiêm Dụng Hòa thời Tống (năm 1253, về sau còn được gọi là Tế sinh quy tỳ thang), nguyên văn trong sách viết: [...]

Bài viết Những nghiên cứu mới về bài thuốc Quy tỳ thang đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
Đôi nét về lịch sử Quy tỳ thang và phụ phương

Lịch sử bài thuốc Quy tỳ thang

Quy tỳ thang lần đầu tiên được ghi chép trong “Tế sinh phương” của Nghiêm Dụng Hòa thời Tống (năm 1253, về sau còn được gọi là Tế sinh quy tỳ thang), nguyên văn trong sách viết: “Quy tỳ thang trị tư lự quá độ, lao tổn tâm tỳ, hay quên và hồi hộp.”

Đến thời Tống, Dương Sĩ Doanh trong “Nhân trai trực chỉ phương” (năm 1264) bổ sung thêm: “Quy tỳ thang trị tư lự tổn thương tỳ, không thể thống nhiếp tâm huyết, dẫn đến phản hành, hoặc nôn ra máu, đi ngoài ra máu.”

Vào thời Nguyên, Nguy Diệc Lâm trong “Thế y đắc hiệu phương” (năm 1337) lại phát triển thêm: “Quy tỳ thang trị tư lự tổn thương tỳ, hay quên, vì tỳ không thể thống nhiếp tâm huyết, huyết vong hành, hoặc nôn ra máu, đi ngoài ra máu.”

Qua sự giải thích của hai tác phẩm này, thuyết “tỳ không thống nhiếp tâm huyết” đã được phát triển thành “tỳ không thống huyết” trong thời Minh và Thanh, và trở thành một trong những lý luận cơ bản thường được trích dẫn trong lâm sàng trị liệu các bệnh chứng liên quan đến máu của y học cổ truyền ngày nay.

Phụ phương của Quy tỳ thang

Bài thuốc gốc Tế sinh quy tỳ thang gồm 10 vị thuốc: Bạch truật, Phục linh, Hoàng kỳ, Long nhãn, Toan táo nhân, Nhân sâm, Mộc hương, Cam thảo, Sinh khương và Đại táo.

Các y gia đời sau đã tùy chứng mà gia giảm, như đời Minh, Tiết Lập Trai trong “Giáo chú phụ nhân lương phương” thêm Đương quy và Viễn chí vào phương để trị các chứng bệnh của phụ nữ, đó là Quy tỳ thang thường dùng trong lâm sàng ngày nay.

Nếu thêm Đan bì và Chi tử thì được bài thuốc Gia vị quy tỳ thang (trong “Y giản”) để trị các chứng uất kết tổn thương tỳ.

Thêm Thục địa vào Tế sinh quy tỳ thang sẽ được bài thuốc Hắc quy tỳ thang (trong “Ngân hải chỉ nam”).

Đời Minh, “Cảnh Nhạc toàn thư” phát triển thành Quy tỳ hoàn, và đời Thanh, “Lịch khoa toàn thư” phát triển ra Gia giảm quy tỳ thang.

Phân tích sơ qua về cấu trúc bài thuốc Quy tỳ thang

Hoàng kỳ và Long nhãn nhục là quân dược, bổ tỳ ích khí, dưỡng tâm an thần;

Nhân sâm và Bạch truật giúp Hoàng kỳ ích khí sinh huyết; Đương quy hỗ trợ Long nhãn nhục bổ huyết dưỡng tâm, cả ba là thần dược.

Toan táo nhân, Phục linh (thường dùng Phục thần) và Viễn chí có thể an thần; Mộc hương lý khí tỉnh tỳ, bốn vị này là tá dược.

Cam thảo sao là sứ dược, điều hòa các vị thuốc; thêm Sinh khương và Đại táo giúp điều hòa tỳ vị.

XEM THÊM: Sản phẩm Quy tỳ cao

Quy tỳ thang chữa các chứng bệnh gì?

Các y gia qua nhiều đời đã sử dụng rộng rãi Quy tỳ thang để trị các chứng tư lự quá độ, lao tổn tâm tỳ gây nên hồi hộp, hay quên, kinh sợ, đổ mồ hôi trộm, mệt mỏi, thích nằm, mất ngủ, ăn ít, đầu óc choáng váng, sắc mặt nhợt nhạt, hoặc tỳ hư không thể nhiếp huyết gây xuất huyết, kinh nguyệt không đều ở phụ nữ, băng lậu đới hạ, đau bụng, sốt nhẹ, cơ thể đau nhức, đại tiện không đều, lưỡi nhạt rêu trắng, mạch nhỏ và yếu. Ngày nay, bài thuốc này thường được dùng để điều trị các bệnh về tim mạch, hệ thần kinh, huyết học và phụ khoa.

1. Bệnh tim mạch

Quy tỳ thang kết hợp với thuốc Tây trong điều trị bệnh tim mạch, đặc biệt có hiệu quả tốt đối với chứng rối loạn nhịp tim, suy tim, bệnh động mạch vành và cao huyết áp, đặc biệt hiệu quả với thể tâm tỳ lưỡng hư. Tuy nhiên, đối với các triệu chứng xuất huyết do đàm nhiệt, Quy tỳ thang không thích hợp.

Phùng (2021) và cộng sự đã phân tích hệ thống về hiệu quả của Quy tỳ thang kết hợp với metoprolol trong điều trị rối loạn nhịp tim từ năm 2012 đến 2018, kết quả cho thấy kết hợp đông và tây y có hiệu quả tốt hơn so với chỉ sử dụng thuốc Tây (p < 0.05), nhưng tỷ lệ phản ứng phụ không có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê.

Quy tỳ thang kết hợp thuốc Tây điều trị suy tim thể khí hư huyết ứ có thể tăng cường khả năng co bóp cơ tim, cải thiện chức năng tim, và cải thiện mức BNP (B-type Natriuretic Peptide) và hs-CRP (hypersensitive C-Reactive Protein). Hiệu quả điều trị kết hợp cao hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng (p < 0.05).

Quy tỳ thang kết hợp thuốc Tây điều trị cao huyết áp, sau điều trị, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được cải thiện rõ rệt so với nhóm đối chứng (p < 0.05), hiệu quả cải thiện huyết áp và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân cao huyết áp.

2. Các bệnh về hệ thần kinh

Mất ngủ do tâm tỳ lưỡng hư

Mất ngủ do tâm tỳ lưỡng hư (thường gặp các triệu chứng như chán ăn, mệt mỏi, tim đập nhanh, hay quên và hay mơ, dễ tỉnh giấc) có thể do rối loạn cảm xúc, ăn uống không điều độ, lao động không hợp lý và cơ thể suy yếu. Khi tỳ vị bị tổn thương, khí huyết không đủ, dẫn đến tâm huyết hư, không thể nuôi dưỡng tâm tỳ, gây ra tình trạng mất ngủ. Do đó, Quy tỳ thang có tác dụng dưỡng tâm an thần, điều trị hiệu quả chứng mất ngủ do tâm tỳ lưỡng hư.

Các nghiên cứu dược lý hiện đại phát hiện rằng Quy tỳ thang có tác dụng an thần, giúp giảm lo lắng thần kinh và tăng cường hệ miễn dịch, hỗ trợ bệnh nhân nhanh chóng đi vào giấc ngủ hiệu quả. Khi sử dụng Quy tỳ thang gia giảm để điều trị mất ngủ do tâm tỳ lưỡng hư, chỉ số đánh giá chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (PSQI) của bệnh nhân và tỷ lệ tác dụng phụ thấp hơn so với nhóm điều trị bằng thuốc Tây. Thời gian ngủ tổng thể được kéo dài đáng kể, tỷ lệ vào giấc trong vòng một giờ đạt 80-90%, tổng hiệu quả điều trị đạt 90% (p < 0.05). Bài thuốc này cũng có thể cải thiện tình trạng mất ngủ và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh Parkinson. Hoạt chất chính của Quy tỳ thang là adenosine, và các gen mục tiêu chính là NR3C1, MAPK3, PPARA, tác động thông qua các con đường chuyển hóa và tín hiệu cAMP để điều trị thiếu ngủ.

Trầm cảm

Đối với bệnh nhân trầm cảm, việc sử dụng kết hợp thuốc chống trầm cảm và Quy tỳ thang giúp cải thiện tình trạng bệnh.

Nhóm điều trị kết hợp với Quy tỳ thang và nhóm điều trị bằng thuốc Tây đều có sự giảm điểm đáng kể trên thang đo trầm cảm Hamilton (HAM-D), thang đo trầm cảm tự đánh giá (SDS) và PSQI so với trước điều trị (p < 0.05), và nhóm điều trị kết hợp có điểm số thấp hơn đáng kể so với nhóm chỉ dùng thuốc Tây (p < 0.05). Hiệu quả điều trị của nhóm kết hợp (97.14%) cao hơn đáng kể so với nhóm chỉ dùng thuốc Tây (77.78%) (p < 0.05), và tỷ lệ tác dụng phụ cũng thấp hơn đáng kể (p < 0.05). Quy tỳ thang giúp cải thiện tình trạng trầm cảm và nâng cao chất lượng giấc ngủ của bệnh nhân.

Wei (2023) và cộng sự đã phân tích các thành phần hoạt tính, mục tiêu và cơ chế tác động của sự kết hợp Toan táo nhân – Phục linh – Long nhãn trong Quy tỳ thang, phát hiện các hợp chất chủ chốt như (S)-norzanthoxylin, coumestrol, n-trans-feruloyltyramine, ellagic acid, harmine và tartaric acid có vai trò quan trọng trong việc điều trị trầm cảm. Những hợp chất này giúp giảm phản ứng viêm, ức chế các cytokine gây viêm và giảm quá trình chết tế bào, nhờ đó điều chỉnh tình trạng trầm cảm. Chúng giúp giảm sự biểu hiện của các yếu tố gây viêm như TNF-α, MAPK và CTNNB1, giảm phản ứng viêm và đóng vai trò quan trọng trong điều trị trầm cảm. Các con đường liên quan đến trầm cảm bao gồm tương tác ligand-receptor, con đường tín hiệu canxi, cAMP và các con đường liên quan đến các bệnh thoái hóa thần kinh khác.

Liu (2023) và cộng sự đã phát hiện Quy tỳ thang có thể điều chỉnh các gen như EGF, PPARG, IL-10 và CRP, giúp điều trị trầm cảm kết hợp với các bệnh đường tiêu hóa.

Thoái hóa thần kinh não

Khi sử dụng Gia vị Quy tỳ thang để điều trị suy giảm nhận thức nhẹ (MCI), điểm đánh giá trung bình trên thang lâm sàng đánh giá sa sút trí tuệ (CDR-SB) của nhóm điều trị đã cải thiện rõ rệt từ 1.53 xuống còn 1.13 (p = 0.01), trong khi nhóm dùng giả dược giảm từ 1.61 xuống còn 1.75, sự khác biệt về điểm số lâm sàng giữa hai nhóm có ý nghĩa đáng kể (p = 0.045), chứng tỏ Gia vị Quy tỳ thang an toàn và hiệu quả trong điều trị suy giảm nhận thức nhẹ.

Ở bệnh nhân Alzheimer được điều trị bằng chất ức chế acetylcholinesterase, kết hợp với Quy tỳ thang, các điểm số trên thang đo MMSE-J và RBANS-J đều được cải thiện, cho thấy Quy tỳ thang có thể cải thiện chức năng nhận thức của bệnh nhân Alzheimer.

Phùng (2022) và cộng sự đã nghiên cứu hiệu quả của Quy tỳ thang trên chuột bị thoái hóa thần kinh do tiểu đường, kết quả cho thấy bằng cách điều chỉnh con đường tín hiệu NF-κB/PI3K, giảm sản xuất IL-6 và tăng biểu hiện của IKKα và PI3K (p < 0.05), Quy tỳ thang giúp giảm viêm và cải thiện tình trạng bệnh.

Các bệnh về hệ thống máu

Hứa (2021) quan sát bệnh nhân cường giáp kèm theo giảm bạch cầu, Trần (2021) và các cộng sự nghiên cứu giảm bạch cầu do thuốc chống lao gây ra, cả hai nhóm đều sử dụng thuốc Tây kết hợp với Quy tỳ thang. Kết quả cho thấy, số lượng tế bào bạch cầu, số lượng bạch cầu trung tính và hiệu quả điều trị ở nhóm kết hợp đông và tây y cao hơn đáng kể so với nhóm chỉ điều trị bằng thuốc Tây (p < 0.05).

Diệp (2023) và các cộng sự nghiên cứu tác dụng của Quy tỳ thang trong điều trị bệnh ban xuất huyết dị ứng ở trẻ em, các thành phần hoạt tính chính như betulin, 1-Tetradecanol và adenosine triphosphate có khả năng điều chỉnh chức năng miễn dịch, trong khi stigmasterol và β-ionone điều chỉnh phản ứng viêm thông qua con đường tín hiệu PI3K/AKT. Các mục tiêu chính bao gồm TGF-β1 và TNF, sự mất cân bằng của hai yếu tố này là yếu tố chính gây bệnh, các mục tiêu khác bao gồm IL-6, IL-17A và FOXP3.

Lee (2015) và các cộng sự nghiên cứu tác dụng phòng ngừa hình thành mạch máu bệnh lý võng mạc của Quy tỳ thang, trên mô hình chuột bị bệnh lý võng mạc do oxy hóa (OIR), điều trị bằng Quy tỳ thang làm giảm đáng kể sự biểu hiện của các yếu tố VEGF, FGF2 và PAI-1 mRNA, từ đó giảm hình thành mạch máu bệnh lý ở võng mạc chuột.

Các bệnh phụ khoa

Các bệnh phụ khoa có liên quan mật thiết đến công năng khí huyết ở phụ nữ. Quy tỳ thang được ứng dụng điều trị các bệnh phụ khoa như rối loạn chu kỳ kinh nguyệt do tâm tỳ lưỡng hư, kinh nguyệt quá nhiều, băng lậu, mất ngủ tiền mãn kinh, thiếu sữa sau sinh, với hiệu quả lâm sàng tốt.

Sử dụng Quy tỳ thang gia giảm kết hợp liệu pháp âm nhạc Ngũ hành để điều trị mất ngủ tiền mãn kinh cho kết quả hiệu quả đạt 89.66%, cao hơn đáng kể so với nhóm chỉ dùng Quy tỳ thang hoặc liệu pháp âm nhạc đơn thuần (p < 0.05), điểm số PSQI và MRS của nhóm điều trị kết hợp cũng thấp hơn rõ rệt so với hai nhóm còn lại (p < 0.05).

Do phụ nữ lớn tuổi khí huyết dần suy yếu, đối mặt với áp lực công việc và gia đình làm tổn thương tỳ, khiến tỳ vị hư yếu, dẫn đến khí huyết không đủ, gây táo bón. Dương (2019) áp dụng khái niệm “phòng bệnh trước khi bệnh xảy ra” trong “Nội kinh” để điều trị táo bón ở phụ nữ tiền mãn kinh bằng Quy tỳ thang, giúp điều hòa khí huyết và cải thiện tình trạng táo bón của bệnh nhân.

Các bệnh khác

Trương (2022) và các cộng sự nghiên cứu việc kết hợp đông và tây y để điều trị lupus ban đỏ hệ thống (SLE) dạng nhẹ, áp dụng các bài thuốc đông y khác nhau cho ba chứng bệnh phổ biến của đông y, trong đó, đối với bệnh nhân thể khí huyết hư, sử dụng kết hợp Quy tỳ thang gia giảm và thuốc Tây. So với trước điều trị, lượng glucocorticoid sử dụng của bệnh nhân (p < 0.01) và mức kháng thể dsDNA (p < 0.05) giảm đáng kể, trong khi mức bổ thể C3 và C4 tăng đáng kể (p < 0.01). Tuy nhiên, hiệu quả điều trị sau cùng giữa nhóm điều trị kết hợp và nhóm chỉ điều trị bằng thuốc Tây không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Tóm lại, qua các nghiên cứu ứng dụng lâm sàng hiện đại, đối với các bệnh nhân có các chứng khí huyết lưỡng hư, khí huyết hư suy, khí hư huyết ứ theo đông y, việc sử dụng Quy tỳ thang kết hợp với điều trị bằng y học hiện đại cho hiệu quả tốt hơn. Tuy nhiên, ngoại trừ chứng mất ngủ, các bệnh khác thường kết hợp điều trị bằng thuốc Tây, ít có nghiên cứu độc lập về việc chỉ dùng Quy tỳ thang để kiểm chứng hiệu quả điều trị của nó, do đó cần thêm các nghiên cứu và chứng minh trong tương lai.

Nguồn: Viện nghiên cứu trung y dược quốc gia – Bộ vệ sinh phúc lợi Đài Loan

https://www.nricm.edu.tw/p/406-1000-7224,r11.php?Lang=zh-tw

BS Uông Mai dịch

Bài viết Những nghiên cứu mới về bài thuốc Quy tỳ thang đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
https://vanquocduocvuong.vn/nhung-nghien-cuu-moi-ve-bai-thuoc-quy-ty-thang/feed/ 0
Ngưu hoàng thanh tâm hoàn – cùng tên khác công dụng, thận trọng khi sử dụng https://vanquocduocvuong.vn/nguu-hoang-thanh-tam-hoan-cung-ten-khac-cong-dung-than-trong-khi-su-dung/ https://vanquocduocvuong.vn/nguu-hoang-thanh-tam-hoan-cung-ten-khac-cong-dung-than-trong-khi-su-dung/#respond Tue, 20 Aug 2024 12:05:35 +0000 https://vanquocduocvuong.vn/?p=2383 Ngưu hoàng thanh tâm hoàn là một loại thuốc Đông y thường dùng, có tác dụng thanh tâm an thần, hóa đờm, bình phong, thường được sử dụng để điều trị chóng mặt, dấu hiệu đột quỵ, di chứng sau đột quỵ, cao huyết áp, v.v. Hiện tại, trên thị trường có ba loại “Ngưu [...]

Bài viết Ngưu hoàng thanh tâm hoàn – cùng tên khác công dụng, thận trọng khi sử dụng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
Ngưu hoàng thanh tâm hoàn là một loại thuốc Đông y thường dùng, có tác dụng thanh tâm an thần, hóa đờm, bình phong, thường được sử dụng để điều trị chóng mặt, dấu hiệu đột quỵ, di chứng sau đột quỵ, cao huyết áp, v.v.

Hiện tại, trên thị trường có ba loại “Ngưu hoàng thanh tâm hoàn” chính: Ngưu hoàng thanh tâm hoàn (cục phương), Ngưu hoàng thanh tâm hoàn Đồng Nhân Đường, và Ngưu hoàng thanh tâm hoàn Vạn Thị. Ba loại ngưu hoàng thanh tâm hoàn này có sự khác biệt rất lớn, tuyệt đối không được nhầm lẫn!

Nguồn gốc các loại Ngưu hoàng thanh tâm

Trước hết, cần làm rõ rằng mặc dù các loại Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn này có tên gọi tương tự nhau, nhưng nguồn gốc của bài thuốc và thành phần dược liệu đều khác nhau.

Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn ban đầu xuất phát từ cuốn “Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương” thời Tống. Để phân biệt với các loại Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn ra đời sau này, hiện nay còn gọi là “Cục Phương Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn”. “Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương” được biên soạn bởi Cục Huệ Dân thời Tống, đây là cơ quan y tế do triều đình thiết lập, tương đương với Ủy ban Y tế (Bộ y tế) ngày nay. Vì vậy, đây cũng là tiêu chuẩn thành phẩm thuốc đầu tiên trên thế giới do Trung Quốc tổ chức biên soạn, tập hợp các bài thuốc hiệu quả được sử dụng phổ biến bởi các thầy thuốc và dân gian thời đó. Nhiều bài thuốc nổi tiếng vẫn được lưu truyền đến ngày nay như Chí Bảo Đan, Tô Hợp Hương Hoàn, Hoắc Hương Chính Khí Tán, Phụ Khoa Tiêu Dao Tán, Thất Tiếu Tán, Phì Nhi Hoàn, Tiểu Bão Long Hoàn, v.v. Những bài thuốc này được đánh giá rất cao. Ví dụ, danh y Chu Đan Khê thời Nguyên từng nói: ‘Cuốn “Hòa Tễ Cục Phương” này có thể dùng làm căn cứ để xác minh các bài thuốc hiệu nghiệm, khi dùng thuốc không cần phải tìm thầy thuốc hay sửa đổi, chỉ cần dùng ngay các thành phẩm hoàn tán đã có sẵn, bệnh tật sẽ được chữa khỏi. … Từ thời Tống đến nay, chính quyền xem đây là quy chuẩn, ngành y coi đây là nghề nghiệp, bệnh nhân dựa vào để giữ mạng sống, người dân thì đã quen thuộc với các bài thuốc này như một thói quen văn hóa.

Đến thời Minh, danh y Vạn Toàn trong cuốn “Đậu Chẩn Thế Y Tâm Pháp” cũng đã ghi lại một bài thuốc có tên là Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn, tuy nhiên, công thức và công dụng của nó khác nhiều so với Cục Phương Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn, do đó, hiện nay gọi là “Vạn Thị Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn” để phân biệt.

“Đồng Nhân Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn” là phiên bản được cải tiến bởi Đồng Nhân Đường dựa trên công thức của Cục Phương Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn, chủ yếu loại bỏ hai vị thuốc là chu sa và hùng hoàng, do đó tác dụng cũng có sự thay đổi

Sự khác biệt về thành phần các loại Ngưu hoàng thanh tâm hoàn

Cấu trúc thành phần dược liệu
Ngưu hoàng thanh tâm hoàn (Cục phương)

(29 vị thuốc)

Ngưu hoàng thanh tâm hoàn (Đồng Nhân Đường)

(27 vị thuốc)

Ngưu hoàng thanh tâm hoàn (Vạn Thị)

(6 vị thuốc)

Ngưu hoàng Ngưu hoàng Ngưu hoàng nhân tạo Ngưu hoàng
Xạ hương Xạ hương tự nhiên hoặc xạ hương nhân tạo Xạ hương nhân tạo
Sừng trâu Bột sừng trâu cô đặc Bột sừng trâu cô đặc
Sừng dê Sừng dê Sừng dê
Hùng hoàng Hùng hoàng
Chu sa Chu sa Chu sa
Các thành phần khác Đương quy, Xuyên khung, Cam thảo, Sơn dược, Hoàng cầm, Khổ hạnh nhân sao, Vỏ đậu nành, Đại táo, Bạch truật sao, Phục linh, Cát cánh, Phòng phong, Sài hồ, A giao, Can khương, Bạch thược, Nhân sâm, Lục thần khúc, Nhục quế, Mạch đông, Bạch liễm, Bồ hoàng sao, Băng phiến Đương quy, Xuyên khung, Cam thảo, Sơn dược, Hoàng cầm, Khổ hạnh nhân sao, Vỏ đậu nành, Đại táo, Bạch truật sao, Phục linh, Cát cánh, Phòng phong, Sài hồ, A giao, Can khương, Bạch thược, Nhân sâm, Lục thần khúc, Nhục quế, Mạch đông, Bạch liễm, Bồ hoàng sao, Băng phiến Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử, Uất kim

Trong Ngưu hoàng thanh tâm hoàn (Cục phương), thành phần “ngưu hoàng” chủ yếu là “ngưu hoàng nuôi cấy ngoài cơ thể.”
Lưu ý: “Ngưu hoàng nuôi cấy ngoài cơ thể” ≠ “ngưu hoàng nhân tạo.”

  • Ngưu hoàng nhân tạo: Được chế từ bột mật bò, acid mật, acid mật lợn deoxycholic acid từ lợn, taurine, bilirubin, cholesterol, các nguyên tố vi lượng, v.v.
  • Ngưu hoàng nuôi cấy ngoài cơ thể: Được chế từ dịch mật tươi của bò, kết hợp với deoxycholic acid, acid mật, bilirubin phức hợp canxi, v.v.

Sự khác biệt về công dụng và lưu ý khi sử dụng của các loại Ngưu hoàng thanh tâm

1. Ngưu hoàng thanh tâm hoàn (cục phương):

Một số sản phẩm Ngưu hoàng thanh tâm hoàn (Cục phương)
Một số sản phẩm Ngưu hoàng thanh tâm hoàn (Cục phương)

Như đã chia sẻ ở trên, Cục phương Ngưu hoàng thanh tâm có 29 vị thuốc trong đó có sự xuất hiện của Chu sa và Hùng hoàng.

Thuốc có công dụng thanh tâm hóa đờm, khai khiếu thông lạc, trấn kinh trừ phong, ích khí dưỡng huyết được dùng cho các chứng trúng phong, co giật do phong, động kinh, đàm ứ tích tụ, hôn mê thần chí rối loạn, là một bài thuốc nổi tiếng dùng để cấp cứu khi bị đột quỵ, với hiệu quả mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong thời hiện đại, do sừng tê giác bị cấm sử dụng vì lý do bảo tồn, nên đã thay thế bằng sừng trâu nước. Xạ hương tự nhiên cũng thường được thay thế bằng xạ hương nhân tạo, đồng thời lớp vàng lá bên ngoài cũng được loại bỏ, khiến hiệu quả của thuốc có phần suy giảm.

Do trong thành phần có nhiều vị bổ dưỡng, nên không thích hợp dùng cho các trường hợp sốt cao do nhiệt tà, phiền táo bất an.

Hơn nữa, chu sa và hùng hoàng trong công thức có tính độc, vì vậy không nên sử dụng lâu dài và cần phải dùng dưới sự hướng dẫn của bác sĩ.

2. Ngưu hoàng thanh tâm hoàn của Đồng Nhân Đường:

Hình ảnh Đồng nhân Ngưu hoàng thanh tâm hoàn
Hình ảnh Đồng nhân Ngưu hoàng thanh tâm hoàn

Do Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn “Cục Phương” chứa chu sa và hùng hoàng, là các thành phần kim loại nặng, nếu dùng lâu dài với liều lượng lớn có thể dẫn đến ngộ độc tích lũy. Vì vậy, Đồng Nhân Đường đã cải tiến công thức này thành “Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn Đồng Nhân”, loại bỏ Chu sa và Hùng hoàng, tăng cường độ an toàn, thích hợp cho việc sử dụng lâu dài hơn, tuy nhiên hiệu quả trấn kinh trừ phong cũng giảm đi.

Thuốc hù hợp với người trẻ tuổi lẫn người lớn tuổi, dù thể chất mạnh hay yếu cũng có thể dùng, và thời gian dùng có thể kéo dài hơn.

Ngưu hoàng thanh tâm hoàn của Đồng Nhân Đường có tác dụng ích khí dưỡng huyết, trấn kinh an thần, hóa đàm tức phong. Thường được sử dụng cho các trường hợp khí huyết bất túc, đờm nhiệt quấy nhiễu gây ra các triệu chứng như chóng mặt, méo miệng, nói khó, hôn mê, v.v. Những triệu chứng này cũng tương tự như bệnh đột quỵ trong y học hiện đại, hay còn gọi là nhồi máu não.

3. Ngưu hoàng thanh tâm hoàn của Vạn Thị:

Một số thành phẩm Vạn thị Ngưu hoàng thanh tâm hoàn trên thị trường
Một số thành phẩm Vạn thị Ngưu hoàng thanh tâm hoàn trên thị trường

Nghiêng về thanh tâm an thần. Thuốc này gồm 6 vị thuốc có tác dụng thanh nhiệt giải độc, hóa đờm khai khiếu, thanh tâm an thần.

Thích hợp cho các trường hợp nhiệt nhập tâm bào, nhiệt thịnh động phong với các biểu hiện sốt cao, mặt đỏ, phiền táo bất an, hôn mê nói sảng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.

Thuốc này cũng thường được dùng cho trẻ em bị sốt cao, co giật, nhưng không nên dùng cho các trường hợp đột quỵ do thiếu khí huyết hoặc âm hư dương cang.

Có thể thấy rằng công thức và công dụng của Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn Vạn Thị có sự khác biệt lớn so với hai loại Ngưu Hoàng Thanh Tâm Hoàn Cục phương và Đồng nhân.

Hy vọng những thông tin về các loại Ngưu hoàng thanh tâm có thể giúp ích cho các bạn trong việc lựa chọn sản phẩm phù hợp với tình trạng sức khỏe.

BS Uông Mai

Bài viết Ngưu hoàng thanh tâm hoàn – cùng tên khác công dụng, thận trọng khi sử dụng đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
https://vanquocduocvuong.vn/nguu-hoang-thanh-tam-hoan-cung-ten-khac-cong-dung-than-trong-khi-su-dung/feed/ 0
Bài thuốc Bát vị hoàn (Bát vị địa hoàng hoàn – 八味地黄丸) https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-bat-vi-hoan-bat-vi-dia-hoang-hoan/ https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-bat-vi-hoan-bat-vi-dia-hoang-hoan/#respond Wed, 29 Nov 2023 17:48:05 +0000 http://vanquocduocvuong.vn/2023/11/30/bai-thuoc-bat-vi-hoan-bat-vi-dia-hoang-hoan/ Kho tàng y học cổ truyền đã để lại cho nhân loại vô vàn các phương thuốc có giá trị bất tử theo thời gian. Bát vị hoàn (Quế phụ địa hoàng thang, bát vị, bát vị địa hoàng, bát vị quế phụ, bát vị địa hoàng hoàn) là phương thuốc kinh điển do Thánh [...]

Bài viết Bài thuốc Bát vị hoàn (Bát vị địa hoàng hoàn – 八味地黄丸) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>

Kho tàng y học cổ truyền đã để lại cho nhân loại vô vàn các phương thuốc có giá trị bất tử theo thời gian. Bát vị hoàn (Quế phụ địa hoàng thang, bát vị, bát vị địa hoàng, bát vị quế phụ, bát vị địa hoàng hoàn) là phương thuốc kinh điển do Thánh y Trọng Cảnh lập nên từ gần 2000 năm trước. Đến nay Bát vị hoàn vẫn được sử dụng rộng rãi trong nhiều chứng bệnh trong đó có suy thận, tiểu đường, hiếm muộn, yếu sinh lý…

Lịch sử bài Bát vị hoàn

Nội kinh, Nan kinh, Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược là 4 bộ sách kinh điển của nền y học cổ truyền phương Đông, đây cũng là kim chỉ nam cho nhiều trường phái lý luận đông y nói chung.

Thánh y Trương Trọng Cảnh (150-219) với bộ sách Thương hàn luận và Kim quỹ yếu lược trở thành thầy thuốc nổi tiếng bậc nhất trong nền y học cổ đại Trung Hoa. 

Trong cuốn Kim quỹ yếu lược có ghi chép phương thuốc Kim quỹ Thận khí hoàn (Bát vị thận khí hoàn) được coi là bài thuốc tiền đề cho 2 bài thuốc nổi tiếng bậc nhất của y học cổ truyền đó là bài Lục vị địa hoàng hoàn của danh y Tiền Ất và bài Quế phụ địa hoàng thang (Bát vị hoàn) được ghi lại trong cuốn Y tông kim giám của Ngô Khiêm.

Ngô Khiêm, tự Lục Cát, người tỉnh An Huy, Trung Quốc. Theo các ghi chép lịch sử, Ngô Khiêm sống vào thời nhà Thanh, quãng niên hiệu Ung Chính, Càn Long (1723-1795). Ông làm đến chức Viên phán Thái y viện phục vụ Vua và tam cung lục viện. Đến tháng 11 năm Càn Long thứ 4 (1789), tuân theo ý chỉ của Vua, Ngô Khiêm cùng với Lưu Dụ Phong tập hợp rất nhiều tài liệu về phương thuốc bí truyền, sách thuốc quý trong khắp thiên hạ. Việc biên soạn cuốn sách kéo dài gần 3 năm đến cuối năm 1742. Vua Càn Long đặt tên sách là “Y tông kim giám” và dùng làm giáo tài của Thái y viện.

Bài thuốc Bát vị hoàn đực ghi chép ở quyển 40, mục “Hư lao trị pháp” với tên gọi Quế phụ địa hoàng thang (桂附地黄汤). So với bài Kim quỹ thận khí hoàn của Thánh y Trọng Cạnh thì bài thuốc này có 2 sự thay đổi về thành phần Sinh địa -> Thục địa, Quế chi -> Nhục quế từ đó nâng cao tác dụng lưỡng bổ âm dương, nhưng thiên về bổ thận dương, mệnh môn hỏa. 

Ở Việt Nam, danh y Hải Thượng Lãn Ông với học thuyết thủy hỏa rất đề cao và coi trọng bài thuốc Bát vị hoàn và Lục vị hoàn. trong cuốn Hải thượng Y tông tâm lĩnh có ghi: “Phàm mệnh môn hỏa suy, tướng hỏa không đủ sinh được thổ, đến nỗi tỳ vị hư hàn, hư yếu, khí kém, không thiết ăn uống, đại tiện không rắn, rốn bụng quặn đau, đêm đi đái nhiều, hoặc mạch hư nhược, âm thịnh cách dương, trong thực hàn ngoài giả nhiệt thì dùng bài thuốc này. Uống bài Bát vị lâu ngày khiến cho người ta béo khỏe mà nhiều con. Đây là bài thuốc hay nhất để bảo toàn sinh mạng.”

Công dụng của bài thuốc

Ôn bổ thận dương, mệnh môn hỏa suy

Thành phần bài thuốc

Bài thuốc gồm 8 vị thuốc

  • Thục địa hoàng (8 phần): tính ôn vị cam, bổ huyết, dưỡng can, tư thận, ích tinh, trấn tủy. Dùng trong điều trị can thận âm hư, đau lưng gối, cốt chưng triều nhiệt, đạo hãn (ra mồ hôi trộm), di tinh, tiêu khát (tiểu đường), thiếu máu, hồi hộp trống ngực, kinh nguyệt không đều, băng lậu, huyễn vựng, ù tai, tóc bạc sớm…
  • Sơn dược/hoài sơn (4 phần): vị ngọt tính bình, bổ phế, kiện tỳ, ích thận. Thường được dùng trong các bài thuốc chữa bệnh đường tiêu hóa, hô hấp. Cũng được dùng trong các bài thuốc chữa các vấn đề thuộc sản – phụ – nam khoa.
  • Sơn thù du (4 phần): Trong y học cổ truyền, Sơn thù du có vị chua tính ôn sáp, bổ thận ôn can, cố tinh bí khí (khí bế tàng), cường âm trợ dương, an ngũ tạng, thông cửu khiếu, súc tiểu tiện. Thường xuất hiện trong các bài thuốc bổ can thận, chữa dau lưng, mỏi gối, tiểu tiện nhiều lần, tiểu đêm, vàng mắt, ù tai, điếc tai, ra mồ hôi, di tinh, đa kinh, rong kinh…
  • Trạch tả (3 phần): Trong y học cổ truyền, Trạch tả có vị ngọt mặn, tính lạnh có tác dụng lợi thủy thẩm thấp, thanh nhiệt tả hỏa. Trạch tả thường được sử dụng trong các bài thuốc chữa nhiễm trùng đường tiết niệu (tiểu buốt, tiểu dắt, tiểu khó, tiểu máu…); phù; thấp nhiệt ở can gây hoa mắt chóng mặt; thấp nhiệt đại trường gây chứng tiêu chảy, tả lỵ; tiết tinh, hoạt tinh ở nam giới …
  • Đan bì (3 phần): Trong y học cổ truyền, Đan bì được dùng phổ biến trong điều trị các bệnh tim mạch, huyết hư, huyết ứ, và các bệnh sinh dục nữ
  • Bạch linh (3 phần): Theo y học cổ truyền, Bạch phục linh có tác dụng lợi niệu thẩm thấp, kiện tỳ, an thần. Thường được dùng trong các bài thuốc điều trị các bệnh như nhiễm trùng đường tiết niệu, tỳ vị hư nhược gây tiêu chảy, mất ngủ, hay quên…
  • Nhục quế (1 phần): Theo y học cổ truyền, Nhục quế có vị thơm, cay, ngọt, đại nhiệt, thuần dương, bổ thận dương mệnh môn hỏa, thông huyết mạch. Chuyên trị các chứng trầm hàn cố lãnh, khử doanh vệ phong hàn, biểu hư tự hãn, khái nghịch (ho, hen suyễn), đau bụng lạnh bụng, tay chân lạnh, bế kinh, lưng gối đau lạnh, rối loạn tiểu tiện…
  • Phụ tử chế (1 phần): Theo y học cổ truyền, Phụ tử chế có tác dụng hồi dương cứu nghịch, bổ mệnh môn hỏa, tán hàn trừ thấp. Phụ tử chế chuyên trị các chứng
    • Vong dương (ra nhiều mồ hôi lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt trắng xanh, thở nhỏ, yếu, đại tiện lỏng…),

    • Thận dương suy kém, chân tay lạnh, ớn lạnh, liệt dương, và đi tiểu nhiều. Tỳ vị hư nhược, đau bụng, phân lỏng,

    • Đau xương khớp do phong, hàn, thấp

Tiêu chuẩn lựa chọn vị thuốc

  • Thục địa được chọn lọc từ những củ sinh địa to béo, đạt chất lượng. Trải qua phương pháp cửu chưng cửu sái cổ truyền để tạo ra thục địa đạt tiêu chuẩn màu đen, bóng, khô mà dẻo, sờ không bị dính tay, thái không bị ra nước, ăn có vị ngọt.
  • Sơn dược có rất nhiều loại và được trồng phổ biến ở các vùng Hà Bắc, Đông Bắc, Sơn Đông, Hà Nam, Giang Tô, Chiết Giang… Tuy nhiên Sơn dược trồng ở đất Hoài Khánh thuộc tây bắc tỉnh Hà Nam là loại tốt nhất được gọi là Hoài sơn. Sở dĩ Sơn dược đất Hoài Khánh tốt là vì khí hậu Hoài Khánh mùa xuân không quá khô, mùa hạ không quá nóng, mùa thu không bị ngập úng, mùa đông không quá lạnh.
  • Sơn thù được lựa chọn cẩn thận. Các quả sơn thù có thịt dày, ít hạt và được loại bỏ hoàn toàn phần hạt. Sơn thù có tác dụng thu liễm nhưng hạt Sơn thù lại gây chứng hoạt tinh, tiết tinh ở nam giới vì vậy trong quá trình bào chế việc loại bỏ hạt Sơn thù du là đặc biệt quan trọng. Sơn thù dùng trong Bát vị hoàn đã được bào chế cùng với rượu theo phương pháp truyền thống để làm tăng tính ôn ấm cũng như công dụng của Sơn thù.

  • Trạch tả chọn những củ to, tròn, chắc, ruột màu trắng hoặc hơi vàng, hơi xốp, được thu hoạch trước khi cây ra hoa. Trạch tả sau khi qua giai đoạn tuyển chọn kĩ lưỡng, sơ chế sẽ tiếp tục được bào chế với muối theo phương pháp cổ truyền nhằm hỗ trợ dược tính, nâng cao hiệu quả của việc dẫn thuốc vào thận.

  • Đan bì được lựa chọn là vỏ rễ cây mẫu đơn trồng ở vùng An Huy – Trung Quốc. Có vỏ ngoài màu nâu vàng, ruột màu trắng hơi hồng, bột mịn, mặt cắt mịn và tương đối phẳng. Đan bì của An Huy là loại Đan bì tốt nhất trên thị trường.  Các cây mẫu đơn được lựa chọn đều trên 4 năm tuổi.

  • Chọn những cây nấm Phục linh to, vỏ xám đen sần sùi, phần thịt màu trắng, rắn chắc. Bỏ phần vỏ, lấy thịt, sơ chế sau đó bào chế với sữa theo đúng phương pháp cổ truyền để tăng tác dụng kiện tỳ trợ giúp cho Hoài sơn.

  • Nhục quế được lựa chọn từ loại Ngọc Quế trên 5 năm tuổi của Quảng Tây. Phần lấy vỏ nằm ở gần sát phần gốc, vỏ dày.

  • Phụ tử chế là loại hắc phụ tử đã qua bào chế theo phương pháp cổ truyền.

Phân tích bài thuốc

Nhục quế tân ôn đại nhiệt, Phụ tử chế tân đại nhiệt, đều có tác dụng bổ hỏa trợ dương. Hai vị khi dùng chung giúp gia tăng tác dụng bổ hỏa. Tiết Lập Trai từng nói : “chỉ có Quế Phụ trong bài Bát vị hoàn mới có tác dụng bổ thận, ở các bài khác thì làm cho tuyên thông”. (Quân dược)

Thục địa cam ôn tư thận âm, trấn tinh ích tủy. Sơn thù du chế rượu cam ôn bổ can thận, thu liễm cố sáp. Hoài sơn cam bổ tính bình có tác dụng thu liễm, dưỡng âm ích khí, bổ tỳ phế thận, cố tinh súc niệu. Ba vị thuốc hợp dụng giúp bổ can tỳ thận, phối với Quế Phụ cứu dương, âm sinh dương trưởng. (Thần dược)

Bạch linh cam bổ đạm thấm, kiện tỳ thấm thấp. Trạch tả cam đạm thấm lợi tính hàn, tiết tả thấm thấp, tả tà hỏa. Đan bì tân tán khổ tiết vi hàn giúp thanh tả can hỏa. Ba vị thuốc thấm lợi tác dụng ngược với 3 vị Thần dược giúp bổ mà không trệ, không bị nhiệt táo. (Tá dược)

Sự phối ngũ giữa 8 vị thuốc tạo ra phương thuốc trong bổ có tả, ôn bổ thận dương làm chính trị chứng thận dương bất túc dẫn đến chân tay lạnh, phù thũng, tiểu tiện bất lợi hoặc tiểu nhiều lần, đàm ẩm suyễn khái, tiêu khát…

Ứng dụng lâm sàng:

Các nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy các vị thảo dược trong bài Bát vị hoàn có tác dụng

  • Hạ đường huyết, hạ lipid máu, ngăn ngừa xơ vữa động mạch
  • Tăng cường chức năng miễn dịch, loại bỏ gốc tự do hoạt động,
  • Cải thiện nội tiết,
  • Cải thiện chức năng thận,
  • Cải thiện thị lực ở người bị đục thủy tinh thể
  • Cải thiện vi tuần hoàn,
  • Điều chỉnh chức năng của hệ thần kinh tự chủ,
  • Trì hoãn lão hóa
  • Thúc đẩy sản xuất testosterone trong tinh hoàn.

Trong những năm gần đây, Quế phụ địa hoàng hoàn đã được kiểm chứng lâm sàng và được nhiều bệnh viện, y gia Trung Quốc sử dụng để điều trị các bệnh về hệ sinh dục – tiết niệu, tăng huyết áp, đục thủy tinh thể, thở khò khè phế quản, cổ trướng, loãng xương, xơ gan kèm theo co thắt dạ dày, viêm khớp do gút, mày đay và các bệnh khác.

Trong đó, các bệnh về hệ sinh dục – tiết niệu bao gồm viêm thận mãn tính, viêm niệu đạo mãn tính, bí tiểu sau sinh, phì đại tuyến tiền liệt, người già tiểu không kiểm soát, đái dầm khó chữa, viêm âm đạo do tuổi già; vô sinh nam, nữ hóa tuyến vú, liệt dương; phụ nữ mắc bệnh, hàng loạt bệnh vô sinh tăng prolactin máu.

Ngoài ra, đối với người già bệnh khớp gối biến dạng, lao xương, đái tháo nhạt, hội chứng thận hư, viêm cầu thận, xuất huyết võng mạc, tăng nhãn áp, lao, co giật mí mắt, thiếu máu, mất ngủ, chảy nước miếng, sốt thấp kéo dài, tiêu chảy mãn tính, đau thần kinh tọa và các bệnh khác có tác dụng nhất định.

Chỉ định

  • Đau lưng mỏi gối, chân tay lạnh, lưng lạnh, tiêu chảy do thận hư
  • Tiểu đêm, tiểu nhiều lần, tiểu khó, són tiểu
  • Phù thũng
  • Ho lâu ngày, nhiều đờm. Viêm phế quản mạn tính, hen phế quản mạn tính…
  • Nam di tinh, liệt dương
  • Nữ rối loạn kinh nguyệt, khí hư nhiều, tử cung lạnh, hiếm muộn, vô sinh.
  • Tiểu đường, rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp
  • Tăng cường miễn dịch

Dẫn dược – thang tống thuốc Bát vị

Để tăng một phần tác dụng điều trị nào đó của bài thuốc Bát vị hoàn, hoặc các tinh trạng cấp không thể dây dưa, các thầy thuốc xưa thường sử dụng một số bài thuốc khác dạng thang sắc để uống viên thuốc Bát vị như: 

  • Nước muối loãng: tăng tác dụng giáng hoả.
  • Nước cơm sôi: tăng khả năng sinh tinh đồng thời bổ tỳ kiêm bổ thận.
  • Nước đun sôi: giúp thuốc được tiêu hóa từ từ
  • Rượu đun nóng: sức thuốc nhanh hơn, mạnh hơn để tránh hàn tà của mùa đông.
  • Bổ trung ích khí thang: kiểm soát việc dẫn hỏa xuống dưới tránh thuốc chạy xuống thái quá. Có thể uống cùng hoặc uống Bổ trung ích khí thang buổi sáng, trưa uống Bát vị hoàn.
  • Lý trung thang: Người tỳ vị hư hàn không dùng bát vị hoàn, nếu cần phải dùng thì dùng cùng Lý trung thang. 
  • Quy tỳ thang: bòi đắp hậu thiên kèm tiên thiên
  • Sinh mạch thang: phế kim sinh thận thủy, làm mẹ con nuôi nhau.
  • Nhân sâm trần mễ thang: Để sinh thêm dương khí, dẫn thuốc xuống tỳ thận.

Lưu ý khi sử dụng

Một số trường hợp cần thận trọng hoặc tránh dùng Bát vị hoàn

  • Không dùng cho người mẫn cảm với các thành phần có trong sản phẩm.
  • Cảm mạo
  • Phụ nữ có thai và cho con bú, trẻ em
  • Người mắc bệnh lý nền nặng.

Một số nghiên cứu của y học hiện đại về bài thuốc Quế phụ địa hoàng thang (bát vị hoàn, Hachimi-jio-gan) dưới các dạng bào chế khác nhau 

  • Trường Khoa học Dược phẩm, Đại học Y khoa Trung Quốc Chiết Giang năm 2021 công bố kết quả nghiên cứu bước đầu sử dụng Quế phụ địa hoàng hoàn (Bát vị hoàn) trong điều trị các bệnh đường hô hấp. Tăng tiết chất nhầy là một dấu hiệu của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) và có liên quan đến việc tăng sản xuất đờm và suy giảm chức năng phổi. Do đó, giảm tiết chất nhờn có thể là một cơ hội điều trị mới để ngăn ngừa COPD. Bát vị hoàn là một loại thuốc cổ điển của Trung Quốc và đã được sử dụng như một chất điều hòa miễn dịch để điều trị chứng thận dương hư, bao gồm suy giáp, suy giảm chức năng vỏ thượng thận, viêm phế quản mãn tính và COPD. Kết quả chứng minh rằng Bát vị hoàn cải thiện chức năng phổi và ngăn chặn tình trạng phù phổi và ức chế tăng tiết nhầy.
  • Một nghiên cứu mới được các nhà khoa học tại Trường Y học Cổ truyền Trung Quốc, Đại học Y khoa Phương Nam công bố tháng 6 năm 2021 Quế phụ địa hoàng hoàn là một phương tễ Trung Quốc nổi tiếng với hoạt tính tăng cường sinh lực và được coi là cải thiện các triệu chứng của thận dương hư. Hệ vi sinh vật đường ruột cũng được cải thiện đáng kể. Phong phú hơn và nhiều vi khuẩn có lợi hơn.
  • Tạp chí Công thức thực nghiệm Trung Quốc năm 2019 đăng tải công trình nghiên cứu của các chuyên gia về Quế phụ địa hoàng hoàn. Bài thuốc có thể cải thiện hiệu quả sức mạnh thể chất, tâm trạng. Giúp giảm đau thắt ngực và tăng cường chức năng tim mà không có phản ứng phụ nào ở bệnh nhân sau phẫu thuật can thiệp mạch vành qua da.
  • Trường Y học Cổ truyền Trung Quốc, Đại học Tế Nam năm 2016 công bố kết quả nghiên cứu cho thấy Quế phụ địa hoàng hoàn cải thiện tình trạng dương hư bằng cách tăng nồng độ alanine, glutamine, alpha glucose, isoleucine, betaine và propylene glycol và thúc đẩy chuyển hóa năng lượng của cơ thể.
  • Học viện Y học Cổ truyền Trung Quốc, Bắc Kinh năm 1994 công bố kết quả nghiên cứu Quế phụ địa hoàng hoàn có thể làm tăng albumin huyết thanh, giảm protein nước tiểu, nitơ urê huyết thanh và cholesterol toàn phần trong huyết thanh, đồng thời cải thiện các tổn thương mô học ở thận trong bệnh viêm thận cấp.
  • Khoa Khoa học Dược phẩm, Đại học Meijo, Nagoya, Nhật Bản thực hiện 2 nghiên cứu trong 2 năm liên tiếp 1987, 1988 kết luận Bát vị hoàn có thể có hiệu quả dự phòng đối với bệnh đục thủy tinh thể nói chung và đục thủy tinh thể do tiểu đường.
  • Trường Y Đại học Tokai, Kanagawa, Nhật Bản năm 2020 đã công bố nghiên cứu: Vô sinh do các phương pháp điều trị chống ung thư đã trở thành một mối quan tâm đáng kể, nhưng hiện nay có rất nhiều phương pháp điều trị hạn chế cho tình trạng này. Việc Hachimi-jio-gan (quế phụ địa hoàng) được sử dụng điều trị vô sinh nam đã được các bác sĩ ứng dụng trong điều trị vô sinh nam ở bệnh nhân điều trị ung thư đem lại kết quả khả quan.
  • Đại học Y dược Toyama, Toyama, Nhật Bản năm 2004: Nghiên cứu này cho thấy Hachimi-jio-gan có thể là một phương pháp điều trị mới để cải thiện bệnh thận do tiểu đường.
  • Khoa Thận, Bệnh viện Kantoh-Teishin, Tokyo, Nhật Bản năm 1996: Những dữ liệu này cho thấy chiết xuất Hachimi-jio-gan có tác dụng hạ huyết áp, có liên quan đến giải quyết một phần tổn thương thận trong tăng huyết áp.
  • Các nhà nghiên cứu của Đài Bắc – Đài Loan năm 2016 nhận thấy bát vị địa hoàng hoàn và thành phần hoạt chất loganin của nó giúp cải thiện tình trạng bàng quang tăng hoạt.
  • Đại học Y dược Toyama năm 2005: Đái tháo đường hiện nay là nguyên nhân phổ biến nhất của suy thận giai đoạn cuối. Điều trị lâu dài với Hachimi-jio-gan (bát vị hoàn) làm giảm tổn thương thận do tiểu đường.
  • Nghiên cứu của Đại học Y dược Toyama năm 2005: Hachimi-jio-gan (quế phụ địa hoàng) đóng một vai trò bảo vệ trong sự tiến triển của suy thận mãn tính thông qua sự suy giảm các độc tố urê, nâng cao hoạt động của enzym chống oxy hóa như SOD và catalase, và cải thiện các tổn thương mô bệnh học ở thận.

BS Uông Mai

Sản phẩm bào chế sẵn Bát vị địa hoàng cao

Bài viết Bài thuốc Bát vị hoàn (Bát vị địa hoàng hoàn – 八味地黄丸) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-bat-vi-hoan-bat-vi-dia-hoang-hoan/feed/ 0
Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-luc-vi-dia-hoang-hoan/ https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-luc-vi-dia-hoang-hoan/#respond Wed, 29 Nov 2023 17:48:02 +0000 http://vanquocduocvuong.vn/2023/11/30/bai-thuoc-luc-vi-dia-hoang-hoan/ Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn là một trong những bài thuốc nổi tiếng và có tính thông dụng nhất của nền y học cổ  truyền. Ra đời cách đây gần 1000 năm nhưng đến nay Lục vị địa hoàng hoàn vẫn còn giữ nguyên được giá trị và ngày càng được ứng dụng [...]

Bài viết Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn là một trong những bài thuốc nổi tiếng và có tính thông dụng nhất của nền y học cổ  truyền. Ra đời cách đây gần 1000 năm nhưng đến nay Lục vị địa hoàng hoàn vẫn còn giữ nguyên được giá trị và ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong điều trị nhiều bệnh lý bao gồm cả hỗ trợ điều trị bệnh Covid 19.

Xuất xứ ra đời của bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn

Theo quan điểm của danh y Tiền Ất trẻ em là thuần dương vô âm, khí dương non, thuần khí thì không có phép bổ dương cho nên ông đã sáng tạo ra bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn dựa trên bài thuốc Bát vị thận khí hoàn của Thánh y Trọng Cảnh, bỏ đi 2 vị Quế Phụ, chuyên trị các chứng bệnh trẻ em. Nhiều danh y nổi tiếng sau này đều coi Lục vị địa hoàng hoàn là “Á khoa chi thánh dược” – thánh dược dùng trong nhi khoa. Cụ Hải Thượng Lãn ông coi bài Lục vị là bài thuốc thánh để bổ âm.

Thành phần của bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn

Thành phần bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn
Thành phần bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn

Thục địa 8 phần

Sơn thù du 4 phần

Sơn dược (Hoài sơn) 4 phần

Đan bì 3 phần

Phục linh 3 phần

Trạch tả 3 phần

Phân tích sơ lược bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn

Dược vị Công dụng
Quân Thục địa Tư âm bổ thận, sinh huyết sinh tinh Tam bổ
Thần  Sơn thù du Ôn can trục phong, sáp tinh bí khí, 
Sơn dược Thanh hư nhiệt tại phế tỳ, bổ tỳ, cố thận sáp tinh
Tá  Đan bì Lương huyết thanh nhiệt, tả hỏa can thận, giảm bớt tính ôn sáp của Sơn thù. Tam tả
Phục linh Thấm thấp nhiệt ở tỳ, thông thận giao tâm, trợ Sơn dược kiện tỳ
Sứ Trạch tả Tả thủy tà ở bàng quang, thông nhĩ minh mục. Làm giảm tính nê trệ của Thục địa

Công dụng của bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn

Thời kì đầu Lục vị được ông Tiền Ất chuyên dùng trong điều trị nhi khoa chữa các chứng tiên thiên bất túc: chậm mọc răng, chậm biết đi, thóp hở, nghẹo cổ (trẻ không giữ cổ thẳng) và một số chứng sốt ở trẻ em… cứu được rất nhiều trẻ nhỏ thoát khỏi nạn chết non.

Về sau, nhờ những tác dụng tuyệt vời của bài thuốc mà các danh y đã ứng dụng Lục vị địa hoàng hoàn trong nhiều chứng bệnh của cả người lớn.

Cho đến ngày nay Lục vị chủ trị các chứng can thận bất túc, chân âm suy tổn, tinh khô huyết kém, lưng đau chân nhức, di tinh, đại tiện máu, tiêu khát, lâm lịch bí tiểu, đờm dãi, hoa mắt, mắt mờ, ù tai, điếc tai, khô cổ, đau họng, mất tiếng, triều nhiệt (sốt về chiều), đau răng vì hư hỏa, buồn phiền vật vã, lưỡi khô đau, đau gót chân, thiếu máu, các chứng lở loét hạ bộ…

Ứng dụng lâm sàng

Dựa trên kinh nghiệm dùng thuốc cũng như nhiều nghiên cứu của y học hiện đại, ngày nay Lục vị địa hoàng hoàn được dùng trong điều trị nhiều bệnh mạn tính như suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể, viêm họng mạn tính, lao phổi, lao thận, tiểu đường, viêm thận mạn tính, cường tuyến giáp, huyết áp cao, tai biến mạch máu não sau giai đoạn cấp, bệnh về mắt (viêm dây thần kinh thị giác, viêm võng mạc trung tâm, teo dây thần kinh thị giác,…), cường giáp, di tinh, rối loạn cương dương (bất dục nam giới, phụ nữ tiền mãn kinh, mãn kinh; 

Ngoài ra bài thuốc còn giúp tăng cường miễn dịch, thúc đẩy quá trình chuyển hóa, tăng cường hormon vỏ thượng thận, chống ung thư…

Kiêng kị

  • Người bị tỳ vị hư nhược, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy
  • Người bị ngoại cảm
  • Người dương hư
  • Người khỏe mạnh, vô bệnh

Bài viết Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-luc-vi-dia-hoang-hoan/feed/ 0
Ý kiến chuyên gia về việc sử dụng An cung ngưu hoàng hoàn https://vanquocduocvuong.vn/y-kien-chuyen-gia-ve-viec-su-dung-an-cung-nguu-hoang-hoan/ https://vanquocduocvuong.vn/y-kien-chuyen-gia-ve-viec-su-dung-an-cung-nguu-hoang-hoan/#respond Wed, 29 Nov 2023 17:47:17 +0000 http://vanquocduocvuong.vn/2023/11/30/y-kien-chuyen-gia-ve-viec-su-dung-an-cung-nguu-hoang-hoan/ Ở nước ta trong khoảng hơn mười năm trở lại đây, An cung ngưu hoàng hoàn (ACNHH) không còn xa lạ gì đối với cả thầy thuốc và bệnh nhân trong lĩnh vực tai biến mạch máu não nói riêng và các bệnh não nói chung. Đằng sau việc sử dụng rộng rãi một cách [...]

Bài viết Ý kiến chuyên gia về việc sử dụng An cung ngưu hoàng hoàn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
Ở nước ta trong khoảng hơn mười năm trở lại đây, An cung ngưu hoàng hoàn (ACNHH) không còn xa lạ gì đối với cả thầy thuốc và bệnh nhân trong lĩnh vực tai biến mạch máu não nói riêng và các bệnh não nói chung. Đằng sau việc sử dụng rộng rãi một cách không chính thống, hẳn vẫn còn không ít người mơ hồ về thực chất tác dụng dược lý cũng như độc tính của ACNHH. Bài viết này hy vọng giúp bạn đọc có thêm thông tin khoa học về ACNHH.

Tổng quan về An cung ngưu hoàng hoàn – TS Bùi Tiến Hưng

1. Nguồn gốc bài thuốc An cung ngưu hoàng

ACNHH đã được nhắc đến nhiều trong sách Ôn bệnh điều biện của Ngô Đường (1758 – 1836) đời Thanh – Trung Quốc. Cuốn sách quan trọng này thảo luận về biện chứng luận trị các bệnh sốt (“ôn bênh”) được soạn xong năm 1798. Tính đến nay ACNHH đã có lịch sử ít nhất 200 năm. Nguyên văn trong sách chép “Ôn bệnh thái âm… hôn mê nói sảng thì lấy Thanh cung thang để chữa, Ngưu hoàng hoàn… cũng được.”

Về thành phần dược liệu, trong sách cũng chép “Ngưu hoàng 1 lạng, uất kim 1 lạng, tê giác 1 lạng, hoàng liên 1 lạng, chu sa 1 lạng, mai phiến 2 đồng rưỡi, xạ hương 2 đồng rưỡi, chân châu 5 đồng, sơn chi 1 lạng, hùng hoàng 1 lạng, vàng quỳ làm áo, hoàng cầm 1 lạng. Những thứ trên nghiền bột thật nhỏ, luyện với mật già làm viên, mỗi viên một đồng cân, lấy vàng quỳ làm áo, bọc trong sáp.Mạch hư thì uống với Nhân sâm thang, mạch thực thì uống với Ngân hoa bạc hà thang, mỗi lần uống một viên. Kiêm chữa đờ người đột ngột hôn mê, năm chứng giản trúng tà bất tỉnh, người lớn trẻ em bị co quắp liệt người do nhiệt. Người lớn bệnh nặng thể thực ngày 2 lần, nặng có thể ngày 3 lần. Trẻ nhỏ uống ba lần nửa viên, không biết thì uống hai lần nửa viên”. Từ những năm 1990, thành phần sừng tê giác được thay bằng bột sừng trâu để bảo vệ loài động vật quý hiếm này.

Cách thức Ngô Đường biên soạn sách Ôn bệnh điều biện chú trọng vào phần lý luận và phương pháp chứ không câu nệ vào phương dược. Các bài thuốc đưa ra được giải thích thêm về cách lập phương và vai trò từng vị thuốc của bài thuốc trong phần Phương luận. Phần Phương luận của ACNHH như sau: “lấy hương thơm để xua tan bẩn đục mà lợi cho các khiếu, lạnh mặn để giữ thận thủy mà yên tâm thể, lạnh đắng khai thông hỏa phủ mà giải tỏa tâm dụng. Ngưu hoàng… khai thông thần của tâm chủ. Tê giác chủ trị trăm thứ độc, tà quỷ chướng khí. Chân châu… khai thông thần minh, cùng với Tê giác bổ thủy cứu hỏa. Uất kim có hương thơm của cỏ, Mai phiến có hương thơm của cây, Hùng hoàng có hương thơm của đá, Xạ hương có hương thơm của tinh huyết, hợp bốn loại hương thơm đó để dùng, khiến cho tà nhiệt ôn độc vốn bế tắc sâu ở trong khu vực quyết âm nhất loạt từ trong thấm ra, mà tà bẩn tự tiêu, thần minh có thể khôi phục. Hoàng liên giải tỏa tâm hỏa, Chi tử giải tỏa hỏa của tâm và tam tiêu, Hoàng cầm giải tỏa hỏa của đởm, phế, khiến cho tà hỏa theo các hương thơm mà nhất loạt tiêu tan. Chu sa bồi bổ tâm thể, giải tỏa tâm dụng, cùng với vàng quỳ làm giáng đờm mà giữ cho bền chắc…”.

Trong nhiều trước tác Đông y thế kỉ XIX và XX, ACNHH thường được nhắc đến cùng với Tử tuyết đan và Cục phương Chí bảo đan, gọi là Lương khai Tam bảo đan, tức là ba loại thuốc viên quý dùng đầu tay cho các trường hợp ôn bệnh nguy kịch, có “hôn mê, nói sảng”. Tác dụng của ACNHH thiên về thanh nhiệt giải độc nên thường được dùng cho những trường hợp nhiễm trùng. Cho đến cuối thập kỉ 1980, chỉ định chính của ACNHH vẫn là viêm não, viêm màng não với các biểu hiện sốt cao, rối loạn ý thức, rối loạn vận động. Đôi khi ACNHH còn được dùng cho những trường hợp hôn mê gan. Chỉ định dùng ACNHH cho tai biến mạch máu não được khẳng định dựa trên các quan sát lâm sàng từ đầu những năm 1990 với tỷ lệ hiệu quả được báo cáo từ 85% đến 100%.

2. Tác dụng dược lý của An cung ngưu hoàng hoàn

Nhiều báo cáo của các thầy thuốc trung Quốc nhận thấy ACNHH có hiệu quả cao trong điều trị tai biến mạch máu não cũng như một số bệnh não nhiễm trùng. Tuy vậy cho đến nay chưa hề có bất kỳ thử nghiệm lâm sàng đối chứng chặt chẽ nào về ACNHH để có thể đưa ra bằng chứng lâm sàng thuyết phục về tác dụng của ACNHH đối với những căn bệnh này. Ví dụ như theo bài đăng trên tạp chí Trung y Trung dược tháng 11/2007 của tác giả Lôi lợi Phong và Súy Gia Trung trình bày một nghiên cứu trên 48 trường hợp bệnh nhân xuất huyết não có tiền sử tăng huyết áp, trong đó có 23 trường hợp điều trị theo phác đồ chuẩn phổ biến hiện nay còn 25 trường hợp thì được dùng thêm ACNHH (1 viên/ngày trong 5 ngày, qua ống thông dạ dày) bên cạnh phác đồ chuẩn. Kết quả tỷ lệ điều trị có hiệu quả ở nhóm ACNHH là 80%, trong khi ở nhóm phác đồ chuẩn chỉ là 47,8%.

Từ đầu những năm 2000, nhiều thực nghiệm đã được tiến hành trên động vật để tìm hiểu cơ chế tác dụng của ACNHH trong một số bệnh lý như xuất huyết não, thiếu máu não… Gần đây nhất là một nghiên cứu công bố trên tạp chí Journal of Ethnopharmacology ngày 28/5/2014, theo đó ACNHH được sử dụng cho chuột thực nghiệm bị tắc động mạch não giữa với liều 0,125 và 0,25 g/kg/ngày thì đều làm giảm mức độ nặng triệu chứng thần kinh, giảm diện tích nhồi máu, giảm tổn thương tế bào và giảm chết tế bào theo chương trình khi so với các con chuột đối chứng. ACNHH làm đảo ngược được rối loạn bệnh lý do thiếu máu não gây ra, cụ thể là làm tăng biểu lộ Bcl-2 và giảm biểu lộ Bax và caspase-3 là những tác nhân điều hòa quá trình chết theo chương trình của tế bào. Mặc dù các tác giả nghiên cứu thực nghiệm này kết luận rằng ACNHH có tác dụng bảo vệ thần kinh và tác dụng này nhiều khả năng liên quan đến việc điều hòa quá trình chết theo chương trình của tế bào, đây cũng vẫn chỉ là nghiên cứu thực nghiệm trên chuột, và liều dùng ACNHH trên chuột vẫn hơi cao hơn so với liều dùng trên người. Viên ACNHH trên thị trường hiện nay thường được bào chế nặng 3g và sử dụng 1 viên mỗi ngày thì liều dùng trên người trung bình khoảng 0,05-0,06 g/kg/ngày sẽ thấp hơn rất nhiều so với liều thử nghiệm nêu trên.

3. Thành phần độc tính có trong An cung ngưu hoàng hoàn

Trong Đông y có nhiều vị thuốc có độc tính cần phải sử dụng thận trọng. Đã từ lâu những quan ngại về độc tính của ACNHH thúc đẩy nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này. Trong thành phần nguyên thủy của ACNHH có chu sa (muối sulfua thủy ngân HgS) và hùng hoàng (muối sulua asen As4S4, As2S2), mỗi vị thuốc này chiếm 10% trọng lượng viên thuốc. Có thể tính toán thấy hàm lượng thủy ngân và Asen trong ACNHH là không hề nhỏ.

Trên tạp chí Experimental Biology and Medicine số 236 năm 2011, nhóm tác giả Trung Quốc và Mỹ đã công bố một nghiên cứu thực nghiệm trên chuột về độc tính trên thận của ACNHH. Khi so sánh chu sa, hùng hoàng và ACNHH (ở liều cao hơn tới 6 lần so với liều lâm sàng) với các muối thủy ngân khác là HgCl2 (1/10 chu sa), MeHg (1/100 chu sa) và các muối asen khác là NaAsO2 (1/100 hùng hoàng) hoặc Na2HAsO4 (1/50 hùng hoàng). Kết quả theo dõi chuột dùng chu sa, hùng hoàng và ACNHH cho thấy hầu như không có độc tính gì trên thận, thấp hơn rất nhiều khi so với các muối thủy ngân và asen khác dù chỉ sử dụng bằng một phần rất nhỏ so với chu sa, hùng hoàng và ACNHH. Lý giải về độc tính rất thấp trên thận của các thuốc này chính là ở độ hòa tan trong nước và hấp thu rất thấp của chu sa và hùng hoàng, khiến cho chỉ có rất ít kim loại tích lũy tại cơ quan đích. Những quy định điều chỉnh về độc chất hiện nay chỉ quan tâm đến tổng lượng thủy ngân và asen mà chưa chú ý đến đặc thù của từng loại hợp chất, trong đó có những hợp chất được sử dụng làm thuốc.

Về nguy cơ độc tính trên gan của thành phần thủy ngân trong ACNHH, trên tạp chí Regulatory Toxicology and Pharmacology số ra tháng 6/2011 đã trình bày một thực nghiệm đánh giá độc tính gan trên chuột dùng chu sa, ACNHH so với các muối thủy ngân MeHg và HgCl2. Kết quả là độc tính trên gan của chu sa và ACNHH hầu như không đáng kể, thấp hơn nhiều khi so sánh với các muối thủy ngân khác. Một lần nữa các tác giả lại nhấn mạnh việc sử dụng tổng hàm lượng thủy ngân để đánh giá độc tính của ACNHH nói riêng, các thuốc Đông y có chứa chu sa nói chung, có vẻ là không phù hợp.

4. Sử dụng An cung ngưu hoàng hoàn ở Việt Nam

ACNHH đã được sử dụng ở Việt Nam từ rất lâu. Trước kia ACNHH theo chân những thầy thuốc từ phương Bắc sang, nhưng chỉ được sử dụng trong những trường hợp bệnh nặng và gia đình khá giả bởi giá thành của thuốc khá đắt. Trong những năm gần đây khi giao thương mở rộng, đời sống kinh tế phát triển, việc mua một viên thuốc giá vài triệu đồng từ một khoảng cách vài nghìn km trở nên dễ dàng hơn thì ngày càng có nhiều người mua và tích trữ viên thuốc này như bùa hộ mệnh trong nhà. Người ta giữ thuốc trong nhiều năm, thế nhưng theo nhà thuốc Đồng Nhân Đường – Trung Quốc cơ sở sản xuất ACNHH khá nổi tiếng thì hạn sử dụng của ACNHH chỉ là 5 năm.

Có cầu tất có cung, nhiều cơ sở kinh doanh nhận thấy việc mua bán ACNHH là thị trường đầy tiềm năng nên hiện nay có rất nhiều loại ACNHH khác nhau xuất xứ từ các nước như An cung ngưu hoàng hoàn Đồng Nhân Đường, An cung ngưu hoàng hoàn Hàn Quốc, Triều Tiên… Cách trình bày rất đa dạng , từ hộp nhung xanh, nhung đỏ, hộp gỗ xanh, hộp thiếc vỏ đỏ. Có người còn quảng cáo cả loại ACNHH có sừng tê giác trong khi Dược điển 2010 của Trung Quốc quy định ACNHH sản xuất bằng sừng trâu. Giá cả mỗi loại cũng rất là “trên trời”, đắt rẻ, thực hư, giả thật lẫn lộn, ngay cả thầy thuốc cũng ít người phân biệt được rõ ràng. Ví dụ riêng loại hộp gỗ màu xanh có ít nhất 3 loại khác nhau, bề ngoài nhìn qua hoàn toàn giống nhau về màu sắc, kích thước, tem, kiều chữ, hạn sử dụng,… nhưng thực chất khác nhau rất nhiều về giá và chất lượng.

Một vấn đề nảy sinh khi trào lưu sử dụng ACNHH lan rộng, đó chính là việc tự ý dùng thuốc. Thầy thuốc Tây y ở các bệnh viện không có thông tin đầy đủ về ACNHH nên không thể tư vấn cho người bệnh. Vậy là người bệnh mầy mò, nghe những người khác rỉ tai, một đồn mười, mười đồn trăm, càng nghe đồn đại nhiều càng tin, và cứ thế sử dụng. Đã có không ít trường hợp người bệnh được đưa đến bệnh viện trong tình trạng hấp hối, đường thở đầy vụn ACNHH. Đó là những người bệnh bị đột quỵ mất khả năng tự nuốt, nhưng người thân cứ ấn ACNHH bắt nuốt. Những trường hợp này, nếu muốn uống thuốc cần nghiền nhỏ viên thuốc, hòa nước và cho uống qua ống thông dạ dày. Bên cạnh đó, việc quá tin tưởng vào ACNHH khiến cho nhiều người bị đột quỵ không chịu đi bệnh viện ngay, mà nằm nhà chờ tác dụng của viên thuốc đắt tiền này. Hậu quả là thời gian quý báu để có thể can thiệp giải quyết đột quỵ trôi qua, người bệnh có những tổn thương thần kinh không hồi phục, sống lệ thuộc và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.

Quan điểm của BS Lương Quốc Chính – Cấp cứu A9 – Bạch Mai

Truyền thông đưa ra cảnh báo rầm rộ về tác hại chảy máu toàn thân do uống an cung ngưu hoàng hoàn để dự phòng hoặc điều trị đột quỵ có vẻ hơi quá, thậm chí định hướng sai nguyên nhân dẫn tới các hậu quả này. Điều này có thể không những không có tác dụng cảnh báo mà còn khiến cho người dân lúng túng trong việc dự phòng và xử trí sai các biến chứng chảy máu không đáng có.

Chảy máu toàn thân có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau như các bệnh lý về máu và đông máu, các bệnh lý nhiễm trùng nặng hoặc do dùng thuốc chống đông quá liều.

Tuy nhiên, nói như trên không có nghĩa là bao biện cho tác dụng chống đông máu theo cơ chế chống ngưng tập tiểu cầu (antiplatelet aggregation) của an cung ngưu hoàng hoàn.

Hầu hết các thành phần chính (8 trong 11 thành phần) được liệt kê ở dưới có trong viên An cung ngưu hoàng hoàn đều có tác dụng:

  • an thần (Bezoar, Rhinoceros horn, Radix scutellariae, Coptidis rhizome, Cape jasmine),
  • chống co giật (Bezoar, Rhinoceros horn),
  • hạ sốt (Bezoar, Rhinoceros horn, Radix scutellariae, Coptidis rhizome, Cape jasmine),
  • chống viêm (Bezoar, Rhinoceros horn, Radix scutellariae, Coptidis rhizome, Cape jasmine),
  • kháng virus (Bezoar, Rhinoceros horn), trợ tim (Bezoar, Rhinoceros horn)
  • chống ngưng tập tiểu cầu (Bezoar, Rhinoceros horn, Musk) v.v…

– Bezoar: Ngưu hoàng (sỏi tự nhiên trong túi mật của trâu, bò)

– Rhinoceros horn: Sừng tê giác

– Radix scutellariae: Hoàng cầm

– Coptidis rhizome: Hoàng liên

– Cape jasmine: Chi tử (quả dành dành)

– Musk: Xạ hương (túi xạ trong hươu xạ, cầy hương, chuột hương)

– Borneol: Băng phiến hay còn gọi là long não

– Curcuma: Uất kim (nghệ vàng)

Như vậy điều chúng ta quan tâm ở đây là tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu (antiplatelet aggregation) nhờ 3 thành phần Bezoar, Rhinoceros horn và Musk có trong viên thuốc. Đây có thể là lý do chính cho chỉ định dự phòng hoặc điều trị đột quỵ nhồi máu não của của viên an cung ngưu hoàng hoàn.

Đột quỵ có hai loại là đột quỵ nhồi máu não và đột quỵ chảy máu não với những biểu hiện triệu chứng khởi phát rất giống nhau. Ngay đối với các bác sĩ cũng rất khó phân biệt hai loại đột quỵ này nếu bệnh nhân chưa được chụp phim cắt lớp vi tính sọ não để chẩn đoán.

Khi xảy ra đột quỵ chảy máu não, bệnh nhân được sử dụng các thuốc chống đông, các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu và ngay cả đối với viên an cung ngưu hoàng hoàn thì có thể dẫn tới hậu quả chảy máu não tiến triển, tình trạng người bệnh xấu đi nhanh chóng, hôn mê sâu hơn và có thể tử vong.

Ngay cả đối với các trường hợp đột quỵ nhồi máu não, nhất là nhồi máu não diện rộng do tắc các động mạch lớn, thì cũng có thể có biến chứng chảy máu não trong ổ nhồi máu não (chảy máu não chuyển dạng) do dùng các thuốc chống đông, các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu và viên an cung ngưu hoàng hoàn.

Nên thận trọng khi kết luận chảy máu toàn thân do dùng viên thuốc an cung ngưu hoàng hoàn vì hệ lụy này có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau mà có thể dự phòng được, đặc biệt là ở những người đang được điều trị lâu dài các bệnh lý khác bằng thuốc chống đông. Hơn nữa, có một vài bằng chứng có giá trị khoa học không cao lại cho thấy hiệu quả và mức độ an toàn của an cung ngưu hoàng hoàn trong đột quỵ chảy máu não (không rõ cơ chế).

Vì vậy, để đảm bảo an toàn, tránh những hệ lụy đáng tiếc như chảy máu não tiến triển, bỏ qua mất giờ vàng (chậm trễ tới bệnh viện) để dùng thuốc tiêu sợi huyết và/hoặc can thiệp nội mạch lấy huyết khối động mạch trong đột quỵ nhồi máu não, các biến chứng khác như sặc phổi… người dân không nên tự ý sử dụng viên thuốc an cung ngưu hoàng hoàn nhằm mục đích dự phòng hoặc điều trị đột quỵ khi không có chỉ định của bác sĩ.

(Theo thông tin từ Guo Y, Yan S, Xu L, et al. Use of angong niuhuang in treating central nervous system diseases and related research. Evidence-based complementary and alternative medicine : eCAM 2014; 2014: 346918. 2015/01/15. DOI: 10.1155/2014/346918.)

Ý kiến của GS.TS Trương Việt Bình – Nguyên giám đốc Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam

Tại sao lại coi việc sử dụng An cung ngưu Hoàng hoàn như một thánh dược phòng và diều trị tai biến mạch não?

Có lẽ xuất phát từ tin dồn một vị cán bộ cao cấp bị tai biến mạch não đã đc TQ cho dùng An cung ngưu Hoàng hoàn và hồi phục. Và từ đó Đồng nhân đường TQ đã sản xuất An cung ngưu Hoàng hoàn để bán cho người VN, rồi Quảng Châu, Hàn Quốc cũng sản xuất nhái thuốc này để bán cho người VN mua để dành, để làm quà biếu sếp, ông bà cha mẹ khi sang du lịch hoặc công tác tại TQ. Và rồi thuốc thật giả tràn lan để bán cho gia đình có người bị đột quỵ.

Vậy bản chất của thuốc này là gì và chữa gì?

Bài thuốc gồm:
Ngưu Hoàng 100 g
Sừng trâu nước 200g
Xạ huong nhân tạo 25 g
Trân trâu 50 g
Chu sa 100 g
Hùng Hoàng 100 g
Hoàng Liên 100 g
Hoàng cầm 100 g
Chi tử 100 g
Uất kim 100g
Băng phiến 25 g
Mật ong luyện thành viên 3 g.

Nguồn gốc bài thuốc : Ngô Cúc Thông ( đời Thanh) tác giả của Ôn bệnh điều biện. (1736-1820)

Công dụng : thanh nhiệt , giải độc, trấn kinh, khai khiếu

Chủ trị : nhiệt nhập tâm bào. Sốt cao co giật hôn mê.

Chuyên trị ôn nhiệt bệnh. Là những bệnh mang tính nhiệt, truyền nhiễm.

Vậy đột quỵ do Vỡ mạch não ( xuất huyết não), nhồi máu não có thuộc phạm trù ôn bệnh không ?

Đột quỵ theo y học cổ truyền thường được mô tả trong các bệnh lý do trúng phong kinh lạc hoặc trúng phong tạng phủ gây hôn mê, liệt hoặc liệt, yếu nửa người không hôn mê . Nguyên nhân do phong tà kết hợp nội phong ( do can huyết hư, can dương thượng cang hoặc đàm thấp hoá hỏa).

Trường hợp hôn mê co giật sốt cao, liệt cần điều trị an cung ơ các trường hợp viêm não, viêm màng não do vi rus hoặc vi khuẩn.

Chữa tai biến mạch não do trúng phong thì phải khu phong, thông lạc. Nếu hôn mê phải khai khiếu tỉnh thần kết hợp : nếu can huyết hư âm hư phải bổ can huyết, bổ âm( Tư âm tiềm dương), nếu khí trệ huyết ứ thì phải hoạt huyết thông lạc, nếu đàm thấp thì phải kiện tỷ trừ thấp hoá đàm. Nếu can thận âm hư thì phải kết hợp tư bổ can thận.

Như vậy về cơ chế đột quỵ ( nhồi máu não và chảy máu não ) do béo phì ( mỡ máu cao), xơ vữa mạch não, Can dương thượng cang thì dùng an cung ngưu Hoàng hoàn không có tác dụng. Chỉ có thể sử dụng trong trường hợp sốt cao co giật liên quan viêm não, viêm màng não. An cung không có tác dụng thông kinh hoạt lạc trong nhồi máu não hoặc cầm máu trong xuất huyết não.

Còn việc sử dụng An cung ngưu Hoàng hoàn phòng đột quỵ vô lý ở chỗ thuốc này là thuốc thanh nhiệt giải độc, chỉ làm tiêu nhiệt độc chứ không thể làm thành mạch mềm mại đỡ xơ vữa. Mặt khác thuốc có độc và lạnh sẽ làm hao tổn dương khí ở người cao tuổi vốn khí huyết đã hư suy nhiều. Các thuốc thanh nhiệt, lạnh đắng làm cho bệnh nhân đầy bụng, ăn ko tiêu và làm tổn hại dương khí của tỳ thận. Uống kéo dài sẽ làm mất công năng vận hoá của tỳ sẽ làm mất nguồn sinh hoá huyết, góp phần gây tai biến mạch não.

Còn dùng An Cung ngưu hoàng hoàn để chữa di chứng tai biến mạch máu não càng vô lý ở chỗ, khi bệnh nhân bị bán thân bất toại đa phần thuộc chứng hư. Nửa người bên liệt thường lạnh vì khí huyết không lưu thông, cơ nhục teo nhẽo, vô lực. Khi dùng các vị thuốc Đắng lạnh thanh nhiệt thì càng làm cho bệnh nặng lên khó hồi phục.

Khi TS Nguyễn Quốc Triệu làm Bộ trưởng Bộ y tế. Tôi có đi tháp tùng Bộ trưởng sang thăm và làm việc với Cục trung y trung dược TQ. Có đi thăm các bệnh viện y học cổ truyền và bệnh viện Tây y ở Bắc Kinh, Thiên Tân, Thành Đô. Khi tới khoa điều trị đột quỵ, TS Triệu có hỏi bác sỹ và bệnh nhân xem có dùng An cung ngưu Hoàng hoàn điều trị tai biến mạch não không thì tất cả bác sỹ trung y cũng như Tây y đều nói không và bệnh nhân không biết An cung ngưu hoàng hoàn điều trị đột quỵ như Việt Nam tuyên truyền.

Như vậy nhiều người chúng ta vì nghe đồn thổi mà mua thuốc để dùng và dự trữ. nhiều bác sỹ vì lợi nhuận buôn bán đã thổi phồng tác dụng của thuốc này và vô tình là nguồn tiêu thụ thuốc cho một số công ty chỉ sản xuất cho người Việt chúng ta vì nhu cầu xuất phát từ tin đồn mà ko cần biết tác dụng thực sự của thuốc.

Để phòng đột quỵ theo y học cổ truyền phải tránh béo phì, đái đường, rối loạn chuyển hoá
từ lúc còn trẻ, vận dộng ăn uống hợp lý nhằm tránh đàm thấp ư đọng tại các kinh mạch, phủ tạng chống vữa xơ động mạch, có đời sống tinh thần tốt,lạc quan, giảm những cảm xúc âm tính, thái quá phòng biến động Huyểt áp…. giữ can huyết can khí can dương luôn ở mức cân bằng tránh thiên thắng.

Điều trị đột quỵ hiện nay có những tiến bộ khoa học y học như nội soi lòng mạch hút cục máu đông, bơm chất hàn chỗ vỡ… tốt trong nhiều trường hợp đột quỵ nếu can thiệp tim mạch kịp thời. Đồng thời kết hợp YHCT để khu phong, thông lạc, ổn định và điều trị các rối loạn thực vật do quá trình xuất huyết não hoặc nhồi máu não gây ra… điều trị đột quỵ kết hợp YHCT và Tây y rất tốt nếu kết hợp sớm và ngay khi đột quỵ. Thời tôi làm trưởng khoa lão bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương vào những năm 1995-1999, bệnh nhân đột quỵ, thậm chí hôn mê được điêu trị kết hợp YHCT và YHHĐ ngay thì khoảng 70% bệnh nhân sau 3 tuần đã dậy được và tập vận động rồi.

Đặc điểm điều trị di chứng tai biến mạch não nhiều thầy thuốc hay sử dụng tả pháp, hoặc dùng châm cứu cường độ kích thích mạnh và lâu làm thoát khí của bệnh nhân và làm cho việc hồi phục kéo dài.

Có điều kiện thì dùng thuốc nam hàng quý để giải độc trừ đàm thấp thông kinh mạch.

GS Nguyễn Văn Thông nói về khả năng dự phòng đột quỵ của An cung ngưu hoàng hoàn

GS Nguyễn Văn Thông, Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam cho biết, ông đã từng trực tiếp sang Trung Quốc từ 10 năm trước, đến các bệnh viện cũng như cơ sở Đồng Nhân Đường nhưng tuyệt nhiên không thấy nơi nào sử dụng an cung ngưu hoàng hoàn để phòng đột quỵ.

GS chia sẻ, trực tiếp đến “quê hương” của an cung ngưu hoàng hoàn mới thấy đây là sản phẩm siêu lợi nhuận, các viên thuốc chỉ có giá 100-150 tệ (350 – 500 nghìn đồng) nhưng về Việt Nam bán đội giá lên tới 1-2,5 triệu đồng.

“Thành phần sừng tê giác trong an cung không có tác dụng ngừa đột quỵ. Trong viên thuốc cũng chứa thạch tín, thủy ngân, vì vậy bệnh nhân không nên dùng, đặc biệt chống chỉ định với những bệnh nhân đột quỵ chảy máu não”, GS Thông nhấn mạnh.

GS Thông cũng khuyên người tiêu dùng nên tỉnh táo trước lời quảng cáo thổi phồng về tác dụng ngừa đột quỵ.

“Thuốc bất kỳ nào khi vào cơ thể, tác dụng dược lý cũng chỉ có trong vài giờ, sau đó được bài tiết, làm sao có tác dụng dự phòng thời gian dài được. Nếu muốn thuốc tồn tại trong vòng 7 ngày thì cần phải được chế tạo bằng công nghệ cao hoặc viên thuốc phải được bao bọc bằng chất liệu đặc biệt để có thể giữ lại trong dạ dày”, GS Thông chia sẻ.

Trong quá trình điều trị, GS Thông cho biết ông đã gặp rất nhiều bệnh nhân đột quỵ nôn dịch màu xanh, là đặc trưng của người bệnh dùng an cung, tuy nhiên khi hỏi, gia đình nào cũng chối.

BS Nguyễn Trung Cấp, Trưởng khoa Cấp cứu, BV Bệnh Nhiệt đới TƯ cho biết, đột quỵ (tai biến mạch máu não) gồm thể chảy máu não (xuất huyết não), nhồi máu não (thiếu máu não, chiếm 85%).

Theo đó, an cung ngưu hoàng hoàn chỉ có tác dụng nhỏ với các trường hợp bị tai biến thiếu máu não, khi đó có thể giúp giảm đông máu, tuy nhiên bệnh nhân vẫn có nguy cơ chảy máu trong vùng nhồi máu.

Ngược lại, nếu bị xuất huyết não, uống an ngưu hoàng hoàn càng nguy hiểm vì gia tăng chảy máu do máu không thể đông lại.

Trong khi đó, để xác định tai biến thiếu máu não hay xuất huyết não, các bác sĩ phải chụp chiếu, xét nghiệm. Do đó người dân không nên tuỳ tiện dùng thuốc.

Trong các tài liệu đông y của Trung Quốc, an cung ngưu hoàng hoàn cũng chỉ có tác dụng thanh nhiệt, giải độc trị sốt cao, co giật, khu đờm, các triệu chứng của nhiệt nhập tâm bào, nói sảng, lưỡi đỏ, trẻ em sốt cao, co giật. 

Thuốc nào cũng có hai mặt của nó, kể cả thuốc Đông y có hàng trăm năm lịch sử. Việc sử dụng thuốc đúng chỉ định và có sự theo dõi thích hợp của người thầy thuốc sẽ phát huy được mặt ưu điểm của thuốc và hạn chế được các tác dụng không mong muốn. Hy vọng những thông tin trên đây sẽ giúp bạn đọc có thêm hiểu biết để chủ động bảo vệ sức khỏe của bản thân mình và gia đình.

Trên đây là tổng hợp các ý kiến chuyên gia đầu ngành về các vấn đề xoay quanh việc sử dụng An cung ngưu hoàng hoàn. 

  • TS Bùi Tiến Hưng – Giảng viên bộ môn Y học cổ truyền – Đại học Y Hà Nội
  • TS Lương Quốc Chính – Khoa cấp cứu A9 – Bệnh viện Bạch Mai 
  • GS.TS Trương Việt Bình – Phó Chủ tịch Trung y Thế giới, Nguyên GĐ Học viện y dược học cổ truyền Việt Nam
  • GS Nguyễn Văn Thông, Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam

Người tổng hợp: BS Thanh Mai

Bài viết Ý kiến chuyên gia về việc sử dụng An cung ngưu hoàng hoàn đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
https://vanquocduocvuong.vn/y-kien-chuyen-gia-ve-viec-su-dung-an-cung-nguu-hoang-hoan/feed/ 0
Bài thuốc chữa lãnh cảm nữ giới trong y học cổ truyền Nhật Bản https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-chua-lanh-cam-nu-gioi-trong-y-hoc-co-truyen-nhat-ban/ https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-chua-lanh-cam-nu-gioi-trong-y-hoc-co-truyen-nhat-ban/#respond Wed, 29 Nov 2023 17:47:09 +0000 http://vanquocduocvuong.vn/2023/11/30/bai-thuoc-chua-lanh-cam-nu-gioi-trong-y-hoc-co-truyen-nhat-ban/ Văn hoá Bushido của Nhật bản đã góp phần đưa tới sự ra đời văn hoá Geisha. Các Geisha làm nghề giải trí, tán tỉnh, khêu gợi, kể chuyện, tâm tình … với khách thượng lưu, samurai, giới quý tộc Nhật nhưng sẽ bị khai trừ khỏi nghề này khi có quan hệ tình dục với khách. Trong hoàn [...]

Bài viết Bài thuốc chữa lãnh cảm nữ giới trong y học cổ truyền Nhật Bản đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
Văn hoá Bushido của Nhật bản đã góp phần đưa tới sự ra đời văn hoá Geisha. Các Geisha làm nghề giải trí, tán tỉnh, khêu gợi, kể chuyện, tâm tình … với khách thượng lưu, samurai, giới quý tộc Nhật nhưng sẽ bị khai trừ khỏi nghề này khi có quan hệ tình dục với khách. Trong hoàn cảnh như vậy, dần dần các nữ Geisa bị trơ lỳ ngưỡng xúc cảm và bị chứng lãnh cảm nữ dục. Khi kết thúc sự nghiệp Geisha để hoàn tục, tình trạng lãnh cảm có thể giảm dần, nhưng một số khác phải uống thuốc mới trở về đời sống sinh lý bình thường được.

Trong sách Tử hoa bản thảo, bài thuốc chữa lãnh cảm cho các Geisha gọi là Mộc dược hoàn (フルログ) đọc tiếng Nhật là Ge-đí-đó-gệt. Đại ý là thuốc chữa cho chứng người nữ lãnh cảm như khúc gỗ biết đi.

Bài cổ phương Mộc hoàn dược gồm Nhân sâm, Hoàng kỳ, Nhục đậu khấu, Xà sàng tử lượng bằng nhau. 

Trong đó, Nhân sâm đại bổ khí tiên thiên, hậu thiên, phục hồi hưng phấn thần kinh, tâm thần là quân dược; Hoàng kỳ bổ khí thăng dương, kiện tỳ hỗ trợ cho Nhân sâm phát huy tác dụng là thần dược; Nhục đậu khấu cay tính ôn, mạnh Tỳ Vị đại trường, hạn chế tính thanh lương của Nhân sâm là tá dược; Xà sàng tử dẫn các vị thuốc tới mạch Xung, Nhâm và mệnh môn hỏa là sứ dược. Sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các vị quân thần tá sứ như trên là nhuần nhuyễn mật thiết.

Để tăng tác dụng và hiệu quả, theo nghiên cứu của y học hiện đại, bài Mộc dược Hoàn được gia thêm 2 vị thuốc sau:

1. Cây thông đất.

2. Đông hầu hoa vàng.

Sau đây xin trình bày thêm về cơ chế tác dụng hỗ trợ chống lãnh cảm nữ của các vị thuốc theo các nghiên cứu dược lý của y học hiện đại:

1. NHÂN SÂM (Radix Ginseng hay Radix ginseng Sylvestris)

Là rễ chế phơi sấy khô của cây Nhân sâm ( Panax ginseng C.A.Mey). Nhân sâm có tác dụng điều hòa hưng phấn và ức chế của vỏ não, chất Saponin của Nhân sâm với liều nhỏ làm hưng phấn trung khu thần kinh và trung tâm tình dục não; Nhân sâm hưng phấn vỏ tuyến thượng thận, trong chuỗi Hạ khâu não – tuyến yên – thượng thận – sinh dục nhờ tăng tiết chất ACTH làm gia tăng cAMP của vỏ tuyến thượng thận. Nên Nhân sâm có tác dụng kích thích hocmon sinh dục giống đực cũng như giống cái; (Trung hoa y học tạp chí, 56:8-10,1963); Nhà khoa học dược lý Sarakhova (1948) tiêm vào chuột cống đực và cái nuôi chung, liều 1/10ml nồng độ 20% thấy nhu cầu tình dục cả 2 phái tăng lên hơn 70% so với nhóm chứng; Khi nghiên cứu nhân sâm với chuyển hóa cơ bản (1947) vô tình tác giả Bộ Nại Thắng và Mã Đại Năng phát hiện: cho uống chế phẩm từ Nhân sâm trên động vật so sánh với các con vật không uống Sâm, thấy trọng lượng con vật tăng lên nhanh hơn, thời gian giao cấu của con vật kéo dài, hiện tượng tình dục xuất hiện rõ rệt. Đó là lý do nhân sâm làm chủ vị và bài Mộc dược hoàn cũng lấy đó làm quân dược.

2. HOÀNG KỲ (Radix Astragali

Là rễ phơi hay sấy khô của cây Hoàng kỳ (Astragalus membranaceus ( Fish) Bunge): Dịch tiêm Hoàng kỳ có tác dụng hưng phấn gây co bóp tử cung cô lập của chuột cống cái 100%.  Ngoài ra, báo cáo của Trương Trạch và Cao Kiều (1940), Hoàng kỳ làm cho kỳ động dục của chuột bạch cái là 1 ngày kéo dài thành 10 ngày. ( Tạp chí Y học Trung quốc 47:7-11,1961).

3. NHỤC ĐẬU KHẤU  (Semen Myristicae Fragranticis)

Qua nghiên cứu dược lý y học hiện đại thấy: Có tinh dầu thơm có khả năng tăng tiết dịch vị, kích thích ăn uống; dùng riêng hoặc dùng chung với dâm dương hoắc đều có tác dụng dậy dục trên chuột cống cái so với đối chứng (Quảng tây, trung tâm nghiên cứu dược liệu, Tạp chí 22:9- 10,1972). Theo các quan sát độc lập tại Ấn độ, Nhục đậu khấu được ví như Viagra của phụ nữ hoặc PT 141 của Đức.

4. XÀ SÀNG TỬ (Semen Cnidii Monnieri)

Xà sàng tử dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh, có tên thực vật là Cnidium monnieri (L) Cusson. Cây Xà sàng là cây Giần sàng mọc hoang ở những nơi đất trống trong nước ta. Mỗi năm từ tháng 6 đến tháng 8 là mùa quả chín, cắt cả cành hay nhổ cả cây về phơi khô lấy quả, loại cành lá và tạp chất, rửa sạch phơi thật khô làm thuốc.  Thành phần chứa Tinh dầu 1,3%, có mùi hắc đặc biệt 1-pinene, 1-camphene, bomyl Isovalerate, Isobomeol, ostole, cnidimine, Isopimpinellinie, dihydro oroselol, columbianadin,cnidiadin, archangelicin. Về tác dụng dược lý, theo y học cổ truyền thường dùng cho người lãnh cảm, tử cung lạnh (dương suy cung lãnh – đàn ông liệt dương, đàn bà không con). Sách Danh y biệt lục ghi: ” lệnh phụ nhân tử tạng nhiệt – làm ấm tử cung đàn bà, nam tử âm cường, hảo nhan sắc,  lệnh nhân hữu tử (dễ sinh con)”;

Xà là rắn, sàng là giường, hay muốn nói xà sàng là cái giường của con rắn, rắn nằm đó ăn hạt Xà sàng; truyền thuyết rằng có người phụ nữ thấy rắn nằm đó đem bắt giết và uống tiết rắn pha rượu. Sau đó nữ nhân này có năng lực tình dục rất mãnh liệt, mọi đàn ông quan hệ với Cổ đều mệt mỏi và không đáp ứng được. Biết được bí kíp này mấy người đàn ông uống trực tiếp hạt Xà sàng tử ngâm rượu, sau đó mới đủ sức khỏe tương hợp nữ nhân trên. Vậy sau này, cụ Tuệ Tĩnh trong cuốn sách Hải Dương phong vật chí mới có câu:

“Gặp đương nhân đương sự không khởi được

Ông già uống Xà sàng sức đương mười thôn nữ”

Nghiên cứu dược lý hiện đại xác nhận Xà sàng tử có tác dụng như testosteron và có tác dụng làm tăng trọng lượng tử cung và buồng trứng. Ngoài ra còn ức chế nấm ngoài da, diệt trùng roi âm đạo.

Bài cổ phương Tam tử hoàn có sử dụng Xà sàng tử, ngũ vị tử, thỏ ty tử phân lượng bằng nhau để chữa phụ nữ vô sinh do lãnh cảm, lạnh tử cung.

5. ĐÔNG HẦU HOA VÀNG

Tên khoa học: Turnera ulmifolia L. Lớp: Equisetopsida C. Agardh, Phân lớp: Magnoliidae Novák ex Takht, Bộ: Malpighiales Juss. ex Bercht. & J. Presl, Họ: Passifloraceae Juss. ex Roussel, Chi: TurneraL, Loài:Turnera ulmifolia L. Turnera ulmifolia L. Theo Phạm Hoàng Hộ, 1999, Cây cỏ Việt Nam, Quyển I, trang 555, lá Đông hầu có tác dụng long đờm, bổ. Ở Mexico và Canada Y học cổ truyền đã biết sử dụng các loài loài khác nhau trong chi Turnera L. để điều trị các bệnh như thiếu máu, viêm phế quản, ho, tiểu đường, sốt, bệnh nấm, rối loạn tiêu hóa, giảm đau, phổi và các bệnh về đường hô hấp, rối loạn da, và bệnh phụ nữ và đặc biệt là tác dụng tăng cường khả năng tình dục 2 giới; Các nhà khoa học đã tách chiết được nhiều hợp chất hóa học có hoạt tính sinh học cao ở trong cây như: Flavonoids (22 hợp chất khác nhau), glucoside maltolt, phenolics, glycosides cyanogenic (7 hợp chất khác nhau), Monoterpenoid, Sesquiterpenoid, triterpenoid, các polyterpene ficaprenol-11, các axit béo, và caffeine. Kết quả thực nghiệm đã chứng minh rằng, nhiều loài trong chi Turnera có tác dụng chữa bệnh đúng như những kinh nghiệm trong Y học cổ truyền, trong đó có trọng tâm là cây Đông hầu: Turnera ulmifolia L; Ngoài ra cây này còn có tác dụng kháng nấm và 1 số loài vi khuẩn, chữa loét dạ dày tá tràng.

6. CÂY THÔNG ĐẤT (Huperzia hamiltonii Spring).

Nghiên cứu được thực hiện tại Khoa Tâm lý học và chương trình trong khoa học thần kinh, Đại học Bucknell, Lewisburg, PA 17.837, Hoa Kỳ cho thấy  acetylcholine có vai trò trong kiểm soát hành vi tình dục của động vật có vú ở cả giống đực và nữ. Hupezin A trong thông đất đã được chứng minh là có tác dụng ức chế Cholinesterase nên tăng được hàm lượng acetylcholine, với nhiều chức năng trong đó có chức năng tăng ham muốn hành vi tình dục và kéo dài.

Như vậy, chứng lãnh cảm nữ không phải bây giờ mới có mà nó đã có rất sớm, cha ông ta cũng đủ lý luận để biện chứng luận trị rất sớm chứng bệnh không hiếm mà không ai nói tới này.                                                         

BS Hoàng Sầm

Chủ tịch hội đồng Viện Y học bản địa Việt Nam

Bài viết Bài thuốc chữa lãnh cảm nữ giới trong y học cổ truyền Nhật Bản đã xuất hiện đầu tiên vào ngày Vạn Quốc Dược Vương.

]]>
https://vanquocduocvuong.vn/bai-thuoc-chua-lanh-cam-nu-gioi-trong-y-hoc-co-truyen-nhat-ban/feed/ 0