Bệnh sùi mào gà và những điều cần biết

Sùi mào gà hay Mụn cóc sinh dục, U nhú, Mụn cóc ở da tay chân và một số vùng khác là một bệnh lây qua đường tình dục khá phổ biến trên thế giới, tốc độ lan truyền nhanh, một tỷ lệ nhỏ có khả năng phát triển thành ung thư. Tỷ lệ bệnh sùi mào gà tăng cao chủ yếu do người dân chưa có nhiều kiến thức về bệnh này.

Nguyên nhân gây bệnh sùi mào gà

Virut HPV hay Virut Sinh U Nhú ở người là nguyên nhân của nhiều loại u và ung thư  khác nhau, đặc biệt là ở cơ quan sinh dục nữ và nam.

Bệnh do virus HPV

HPV là những virut nhỏ, đường kính 55 nm, không có màng bọc ngoài, DNA sợi đôi dạng vòng và nucleocapsid đối xứng xoắn ốc. HPV được xếp vào họ Papillomaviridae có DNA. Người ta tìm thấy HPV trong các nhân của các tế bào biểu mô bị nhiễm và cho rằng nó có liên quan tới loạn sản và ung thư sinh dục.

HPV là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp ung thư cổ tử cung. Đây là loại virut lây truyền qua đường tình dục, kể cả quan hệ tình dục qua ngả âm đạo và hậu môn hoặc lây khi tiếp xúc qua da. Ít nhất 50% người đã từng có quan hệ tình dục sẽ bị mắc HPV vào một thời điểm nào đó trong cuộc sống.

Có tất cả trên 100 typ HPV. Trong số này, có 40 týp HPV gây nhiễm qua đường tình dục cho vùng hậu môn – sinh dục, miệng, cổ họng và 15 typ thuộc nhóm “nguy cơ cao” gây ung thư. Đặc biệt là 2 typ HPV 16 và 18, gây ra 70% các ung thư và các tổn thương tiền ung thư của cổ tử cung.

Ung thư cổ tử cung là loại ung thư đứng hàng thứ hai sau ung thư vú ở phụ nữ, số đông sống ở các vùng kém phát triển. Năm 2012, có khoảng 445.000 trường hợp ung thư cổ tử cung mới (chiếm 84% số ca mới của toàn thế giới) với khoảng 270.000 phụ nữ chết vì bệnh này (> 85% số ca tử vong này gặp ở các nước có thu nhập thấp và trung bình). HPV còn liên quan tới ung thư hậu môn, âm hộ, âm đạo, đầu-mặt-cổ và dương vật. Vắc-xin chống HPV 16 và 18 được chấp nhận sử dụng tại nhiều nước để phòng ngừa ung thư. Ở những vùng địa lý khác nhau, tần suất nhiễm các týp HPV thường khác nhau. 

Mụn cóc hay u nhú của da ở tay, chân thường do HPV-1 dến HPV-4; mụn cóc sinh dục hay còn gọi là bệnh sùi mào gà thường do HPV-6 và HPV-11 gây ra (trong 90% trường hợp) và 2 typ này ít có khả năng gây ung thư.

Biểu hiện của bệnh sùi mào gà

Virut HPV (Human Papilloma Virus) sau khi xâm nhập vào cơ thể sẽ có thời gian ủ bệnh từ  vài tháng đến vài năm. Bệnh biểu hiện bằng các nốt hay sẩn nhỏ, u nhú màu hồng hoặc màu trắng hồng. Ban đầu kích thước nhỏ 1 – 2 mm, rồi tiến triển to dần, sùi lên tạo thành các khối to giống bông cải hoặc như mào con gà, thường không đau. Mật độ thường mềm, bề mặt sần sùi. Khối u nhú này có thể khô hoặc ẩm ướt, tiết dịch có mùi hôi thối do bội nhiễm. Có khi chỉ có một vài tổn thương riêng lẻ nhưng thường thì tập trung thành từng đám.

Các loại tổn thương do virus HPV gây ra
Các loại tổn thương do virus HPV gây ra

Vị trí xuất hiện thường gặp ở qui đầu, rãnh qui đầu, vùng dây thắng, thân dương vật, da bìu, bẹn, mông, đùi. Tổn thương cũng có thể xảy ra trong ống hậu môn hay quanh hậu môn. Ở nữ, vị trí xuất hiện thường ở môi lớn, môi bé, âm vật, vùng quanh niệu đạo, đáy chậu, âm đạo và cổ tử cung… Ngoài ra, có thể gặp ở môi, miệng, lưỡi, họng trẻ nhỏ do người mẹ bị bệnh truyền HPV cho con trong lúc sinh; hoặc gặp ở người lớn khi quan hệ tình dục bằng miệng.

Tình trạng nhiễm HPV gặp khá phổ biến nhưng dấu hiệu phần lớn chỉ thoáng qua, không rõ rệt, chỉ một số ít có biểu hiện lâm sàng ở những mức độ khác nhau. 

U nhú xuất hiện ở nhiều tạng khác nhau do HPV có tính hướng tế bào biểu mô vảy. Đa số các trường hợp nhiễm HPV (80%) chỉ là thoáng qua, không có triệu chứng và sẽ thải loại được virut. Số còn lại nhiễm HPV kéo dài trên 12 tháng mới có nguy cơ tiến triển từ từ thành các u tân sinh trong biểu mô của cổ tử cung, âm hộ, dương vật hay hậu môn mà thường là các tổn thương tiền ung thư và cuối cùng là ung thư xâm lấn.

Các tổn thương tiền ung thư của cổ tử cung (hay của âm vật, dương vật, hậu môn) thể hiện bằng các vết trắng mờ đục quan sát được sau khi bôi acid acetic tại chỗ. Ung thư xâm lấn cổ tử cung có thể xuất hiện sau nhiễm HPV nhiều năm, có khi tới 10 năm, 20 năm

Bệnh sùi mào gà có lây không?

Bệnh sùi mào gà xuất hiện ở cả nam lẫn nữ, nhất là ở gái mại dâm. Bệnh chủ yếu lây truyền qua đường tình dục, còn có thể lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với mầm bệnh khi da và niêm mạc bị trầy xước hoặc gián tiếp. Trẻ sơ sinh có thể bị lây bệnh trong lúc sinh từ người mẹ mắc bệnh.

Những yếu tố dễ gây nhiễm: Phần lớn người có quan hệ tình dục đều có thể bị nhiễm HPV. Người dễ bị nhiễm HPV hơn khi họ có quan hệ tình dục quá sớm, có nhiều bạn tình, quan hệ với bạn tình đã từng có nhiều bạn tình. 

Các xét nghiệm dùng để phát hiện bệnh sùi mào gà

Hiện nay, không có xét nghiệm máu nào có thể phát hiện HPV ở bệnh nhân một cách thường qui. Các trường hợp nhiễm HPV được chẩn đoán thông qua việc khám bệnh khi đã có biểu hiện các triệu chứng của sùi mào gà, mụn cóc sinh dục… xem có hay không virut HPV tại nơi bị tổn thương. Khi có nhiễm HPV, sẽ xác định thuộc loại typ nào và biết týp nào thuộc loại nguy cơ cao.

Tuy nhiên, các xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HPV vẫn rất cần thiết, giúp khẳng định tình trạng nhiễm HPV và nhận biết týp HPV gây nhiễm. Khác với việc chẩn đoán nhiều loại virut gây bệnh khác, kỹ thuật nuôi cấy virut từ các mô bệnh và phát hiện kháng thể trong huyết thanh chưa được sử dụng đối với chẩn đoán nhiễm HPV.

Các xét nghiệm thường được sử dụng là:

1. Xét nghiệm Papanicolaou hay Phết mỏng cổ tử cung (PAP Test)

Phết tế bào cổ tử cung lên lam kính, nhuộm và soi dưới kính hiển vi. Nếu nhiễm HPV, sẽ thấy sự hiện diện của các tế bào rỗng (koilocyte) là các liên bào vảy bị biến đổi về cấu trúc do chúng bị nhiễm bởi con người; đây là những tế bào có nhân tăng sắc và cuộn lại, có quầng sáng quanh nhân do bào tương bị thoái hóa Pap test giúp tầm soát nhiễm HPV định kỳ hàng năm, nếu kết quả âm tính trong ba năm liên tiếp thì chỉ cần làm lại mỗi ba năm. Tuy nhiên, Pap test có độ nhạy không cao và hơn nữa, test này không giúp phân biệt được các týp HPV.

2. Các xét nghiệm sinh học phân tử

Xét nghiệm làm được hiện nay là cắt lấy một mẫu thương tổn để thử HPV định typ gen. Xét nghiệm này, sử dụng các kỹ thuật sinh học phân tử để phát hiện đoạn gen đặc hiệu của HPV (HPV-DNA) trong bệnh phẩm, được xem là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán nhiễm HPV ở mọi giai đoạn bệnh, do có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn Pap test. Phương pháp sinh học phân tử còn cho phép định týp HPV, định nhóm HPV nguy cơ cao hay thấp và định lượng HPV. Hiện nay, phương pháp sinh học phân tử phát hiện đoạn gen đặc hiệu của HPV được xem là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán nhiễm HPV ở mọi giai đoạn bệnh, do có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn Pap test. Phương pháp sinh học phân tử còn cho phép định týp HPV, định nhóm HPV nguy cơ cao hay thấp và định lượng HPV. Việc phát hiện sớm tình trạng nhiễm HPV và týp HPV gây nhiễm kết hợp với thăm khám lâm sàng có vai trò quan trọng trong việc tiên lượng, phòng ngừa và xử trí sớm. 

Điều trị bệnh sùi mào gà

Điều trị sùi mào gà chỉ là điều trị triệu chứng do HPV gây ra, không chữa hết được virus HPV. Do đó, sùi mào gà thường tái phát sau khi chữa trị, đặc biệt là trong 3 tháng đầu tiên.

Cách điều trị tùy thuộc vào số lượng, vị trí và mức độ lan rộng của tổn thương. Có nhiều cách để chữa trị sùi mào gà, bao gồm các loại kem thoa tại chỗ như: bichloroacetic acid (BCA), trichloroacetic acid (TCA), podophyllin (Podocon), podofilox (condylox) hoặc imiquimod (Aldara, Zyclara) là chất giúp hệ miễn dịch của cơ thể sản xuất interferon chống lại các tế bào bất thường và virut hoặc đốt điện, đốt laser, đốt lạnh và phẫu thuật nếu tổn thương lớn. Khi phẫu thuật cần gửi mẫu xét nghiệm để chẩn đoán xác định, định týp và loại trừ loạn sản hay ung thư.

Bệnh sẽ giảm nếu chữa đúng cách nhưng bệnh sùi mào gà rất dễ tái phát và không thể chữa khỏi hoàn toàn. Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh
sẽ phát triển nhiều và to ra, gây viêm loét, chảy máu làm cho tiêu tiểu, giao hợp khó khăn hoặc các tổn thương có thể lan rộng, phá hủy mô, làm biến dạng cấu trúc cơ thể.

Phòng tránh bệnh sùi mào gà

Bệnh lây do da, niêm mạc tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với mầm bệnh (nhất là khi da và niêm mạc bị trầy xước, có vết thương).

Đường lây truyền chủ yếu do quan hệ tình dục. Các hành vi tình dục có nguy cơ cao: quan hệ với nhiều người, nhiều đối tượng khác nhau, quan hệ đồng tính nam, không dùng bao cao su, quan hệ với người đang nhiễm bệnh.

Do đó, để phòng ngừa cần: quan hệ một bạn tình, dùng bao cao su, không quan hệ với người đang nhiễm bệnh. Tiêm vắc xin kháng HPV- týp 6 và HPVtýp 11 cho cả nam và nữ.

Vắc xin HPV

Vắcxin HPV gọi là Gardasil mô phỏng bệnh và tạo ra kháng thể. Vắcxin không chứa virus HPV còn sống hoặc đã chết. Gardasil ngăn chặn sự lây nhiễm 4 týp HPV (6, 11, 16 và 18). Trong khi đó, Gardasil 9 có thể ngừa 9 typ (6, 11, 16, 18, 31, 33, 45, 52 và 58).

Vắcxin chỉ định cho nam giới và phụ nữ từ 9 – 26 tuổi. 

Tác dụng phụ khi dùng vắcxin: Các cuộc thử nghiệm vắcxin cho thấy khi sử dụng chỉ có một số người bị sốt nhẹ, một số khác bị nổi mẩn đỏ hoặc ngứa rát ở vùng da được tiêm vắcxin.

Vắcxin có hiệu quả 95 – 98% đối với HPV, tùy loại týp. Tốt nhất nên tiêm vắcxin trước khi bắt đầu có quan hệ tình dục.

Vắcxin không điều trị hay chữa khỏi HPV. Nó chỉ có thể giúp những người đã bị nhiễm một trong các loại HPV khỏi bị nhiễm thêm các loại khác. Ví dụ, nếu bị nhiễm HPV-týp 6, nó có thể giúp bạn không bị nhiễm týp 11. Vắcxin giúp bảo vệ chống HPV hữu hiệu trong thời gian dài.

TS BS Từ Thành Trí Dũng – Bệnh viện Đại học Y dược TP HCM

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *